Tuesday, May 6, 2014

Cơ bản về Kinh Thánh 1

Giáo Lý Thánh Kinh  
BÀI 1 : TỔNG QUÁT VỀ THÁNH KINH

1. Thánh Kinh là gì?
          Trong bối cảnh xã hội thời nay, người ta thường nghe những tiếng ồn ào của xe cộ, của những bản nhạc và của mọi lo toan trong cuộc sống, nên phần lớn trong số họ không nghe được tiếng Chúa nói. Tuy nhiên, nhiều người dù có tin hay không thì vẫn tồn tại một chân lý rằng: Thiên Chúa đã nói. Thiên Chúa không nói với con người bằng ngôn ngữ của Ngài, nhưng Ngài đã dùng chính ngôn ngữ của con người mà nói với họ dưới hình thức: hành động, lời, sau cùng nơi Đức Giê-su Ki-tô.
          a. Thiên Chúa nói bằng hành động
          Để dạy loài người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, trước hết, Ngài đã chứng tỏ tình yêu ấy bằng hành động: Ngài trao ban mọi sự cho con người và cứu giúp con người trước. Chính Thiên Chúa đã hành động như thế liên tục trong lịch sử nhân loại mà không nói bằng lời. Giống như người mẹ thương con, bà hy sinh tận tuỵ lo lắng cho con từ khi nó còn trong bụng mà không cần phải nói gì. Đứa con thật sự hiếu thảo cũng không cần đợi được nghe người mẹ kể lể về nỗi vất vả của mình mới nhận ra những hy sinh đó của mẹ. Nó đọc được điều ấy qua tất cả những gì mà bà mẹ đã, đang và sẽ làm cho nó.
          b. Thiên Chúa nói bằng lời
          Có khi, vì gặp phải đứa con hư, bất đắc dĩ người mẹ phải nói về tình thương của bà, về những hy sinh vất vả mà bà đã chịu đựng vì nó, những điều mà lẽ ra bà chỉ muốn dấu kín trong lòng. Cũng có khi bà mẹ sung sướng vì đứa con ngoan, tin cậy nó, muốn nó học được những điều tốt của bà nên bà đã ngồi tâm sự, nói cho nó nghe cả những điều thần kín. Cũng vậy, Thiên Chúa dùng lời lẽ của chính con người mà nói với họ vừa để mời gọi con người từ bỏ tội lỗi, vừa để giúp con người nên giống Ngài. Thiên Chúa muốn khẳng định rằng Ngài yêu thương ta hơn cha mẹ: “Dù có người mẹ nào quên được con mình đi nữa, Ta vẫn không bao giờ quên con” (Is 49, 15).
          Thiên Chúa tỏ rõ sự can thiệp của Ngài trong lịch sử, đặc biệt là trong lịch sử của dân tộc Ít-ra-en - dân riêng Ngài đã chọn. Qua các Ngôn sứ, Thiên Chúa đã dùng chính ngôn ngữ của con người để giúp họ hiểu tình thương cứu độ của Ngài sẽ được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô.
          c. Thiên Chúa nói tất cả nơi Đức Giê-su
          Thánh Gio-an cho biết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình, để ai tin vào Người Con ấy thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Con Thiên Chúa đến cứu chuộc chúng ta trước hết là bằng cách nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18).
          Đức Giê-su là đỉnh cao nhất của mạc khải[1]. Ngài là Lời trọn hảo của Chúa Cha nói với con người, nên sau Ngài không còn mạc khải chính thức nào nữa. Như vậy, Thiên Chúa đã nói bằng Lời qua các Tổ phụ, các Tiên tri và nhất là nói trọn vẹn nơi Đức Giê-su.
2. Sự hình thành Thánh Kinh
          a. Tác giả Thánh Kinh
          Thánh Kinh là một công trình vĩ đại của nhiều người trong suốt hơn 12 thế kỷ. Với hình thức không phải là một cuốn sách đơn lẻ bình thường, Thánh Kinh như một thư viện chứa đựng một kho tàng tư tưởng phong phú với đủ mọi thể loại văn chương: từ lịch sử, triết lý, luật pháp, thư, kịch, truyện, cho đến thánh ca, tình ca, châm ngôn, các lời tiên tri, những tâm tình cầu nguyện…
          Tuy nhiên, Thánh Kinh không đơn thuần là lời của con người, mà trước hết là Lời Thiên Chúa. Đây là bản chất đích thực của Thánh Kinh làm cho Thánh Kinh luôn có giá trị cho mọi người, mọi thời đại. Chính Chúa Thánh Thần đã tác động và soi sáng cho những người Ngài chọn, để họ viết lên những điều Ngài mạc khải nhằm phục vụ cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa tuỳ theo cách thức của mỗi người. Vì vậy, tác giả chính của Thánh Kinh là Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã linh hứng cho các tác giả loài người, Ngài hành động trong họ và nhờ họ.
          Thực tế cho thấy, nếu không biết Tiếng Anh, chúng ta cũng không thể nào giao tiếp được với người Mỹ, vì khi chúng ta nói, họ đâu hiểu được. Do đó, khi nói với con người, Thiên Chúa đã dùng chính ngôn ngữ của con người mà nói với họ. Có như thế, con người mới khám phá được tình thương yêu của Thiên Chúa trong lịch sử đời mình.
          b. Linh hứng
Theo nghĩa Thánh Kinh, linh hứng (hay thần hứng) có nghĩa là đầy tràn Chúa Thánh Thần hoặc thống trị bởi Chúa Thánh Thần.
          Linh hứng rất quan trọng trong việc diễn giải Thánh Kinh, nhưng vai trò của Thiên Chúa qua Chúa Thánh Thần – tác giả đích thực của Thánh Kinh không tước bỏ hoàn toàn các giới hạn phàm trần của các tác giả viết Thánh Kinh. Theo đó, Thiên Chúa trong ý định quan phòng mầu nhiệm của Ngài đã cung ứng cho toàn thể loài người một Thánh Kinh, trong đó lịch sử sáng tạo – cứu độ, lịch sử mối tương quan thân thiết giữa Thiên Chúa cho loài người qua Ít-ra-en và trong Chúa Ki-tô, được ghi lại bởi các tác giả Thánh Kinh. Các tác giả này, khi viết các sách thánh dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, đều là những con người bị giới hạn bởi gia đình, xã hội, lịch sử, văn hoá, kiến thức, học lực, tôn giáo, nhân sinh quan, thế giới quan của thời họ đang sống (khoảng thế kỷ XIII đến thế kỷ I TCN đối với các sách Cựu Ước và khoảng thế kỷ I – II SCN đối với các sách Tân Ước). Hơn nữa, các tác giả Thánh Kinh này viết các sách thánh của họ cho các cộng đoàn tín hữu trong thời đại của họ, cho nên các tác phẩm của họ không nhất thiết cung cấp các câu trả lời cho những vấn nạn về thần học cũng như luân lý của những thời đại sau đó, như thời của chúng ta chẳng hạn. Chính Thiên Chúa sẽ đáp trả cho những vấn nạn của các thời đại qua Chúa Thánh Thần hoạt động trong việc chú giải Thánh Kinh vấn tiếp diễn, trong truyền thống và các dấu chỉ thời đại.
3. Thánh Kinh gồm những phần chính nào ?
          Thánh Kinh gồm có hai phần chính là Cựu Ước và Tân Ước.
          a. Cựu Ước: (sẽ được trình bày ở bài kế tiếp)
b. Tân Ước
Theo thuật ngữ, Tân là mới; ước là hẹn. Tân Ước là giao ước mới.
          Theo nghĩa của bài, Tân Ước là một bộ sách gồm 27 cuốn sách thánh riêng của Ki-tô giáo, nguyên văn chép bằng tiếng Hy-lạp, được thành hình trong nửa sau của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.
          Nội dung của Tân Ước trình bày về các mầu nhiệm của Chúa Giê-su Ki-tô. Ngài là Ngôi Lời đầy tràn ân sủng và chân lý đã nhập thể và ở giữa chúng ta. Chính Ngài đã thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian, mạc khải Chúa Cha và chính mình Ngài qua lời nói và việc làm. Ngài hoàn tất công trình cứu chuộc của mình qua mầu nhiệm sự chết, sống lại, lên trời vinh hiển và ban Thánh Thần đến cho nhân loại. Ngài là Đấng Duy nhất có những lời ban sự sống vĩnh cửu. Những mầu nhiệm này chưa bao giờ được tỏ cho các thế hệ khác biết, nay đã được mạc khải trong Thánh Thần cho các Tông đồ của Ngài để họ rao giảng Tin mừng, cổ võ lòng tin vào Chúa Giê-su là Đấng được xức dầu và là Chúa, để qui tụ Hội Thánh.
BẠN CÓ BIẾT ?
KHUNG CẢNH ĐỊA LÝ CỦA CỰU ƯỚC
Lịch sử Cựu ước diễn ra trong vùng tiếp cận giữa châu Á, châu Âu và châu Phi, ngày nay quen gọi là Trung Đông hay Cận Đông. Vùng này tuy không lớn (diện tích chỉ bằng vùng Đông Nam Á) nhưng có một vai trò quan trọng trong lịch sử, vì là nơi phát xuất của những nền văn minh cổ nhất thế giới.
Ở phía tây vùng Trung Đông là Ai Cập. Mạch sống của Ai-cập là sông Nin, dài 6.000 km. Tại đây, một nền văn minh đã phát sinh từ 3000 năm trước công nguyên, với những công trình kiến trúc vĩ đại (các đền đài, các kim tự tháp), những tác phẩm nghệ thuật tinh vi và một nền văn minh phong phú. Ai-cập là một nước sớm thống nhất và đã có những thời kỳ thế lực chính trị khá mạnh.
Ở phía đông là miền Lưỡng-hà. Gọi như thế vì đó là một đồng bằng phì nhiêu có hai cong sông lớn chảy qua: sông Ti-gơ-ra và sông Êu-phơ-rát. Văn minh ở vùng này cũng rất xưa và rực rỡ: tại đây loài người đã phát minh ra chữ viết đầu tiên, cách đây hơn 5000 năm. Về mặt chính trị, miền này khi thì chia ra những thành phố tự lập, khi thì thống nhất dưới quyền một đế quốc lớn như Át-xi-ri (thế kỷ 8-7 trước công nguyên), Ba-bi-lon (thế kỷ 7-6).
Nối liền Ai-cập và miền Lưỡng-hà là bờ biển Phê-ni-ki, một giải đất hẹp nằm giữa núi Li-băng và Địa-trung-hải. Văn minh ở vùng này cũng có từ lâu đời, ngôn ngữ rất gần với tiếng Híp-ri của Ít-ra-en. Phần phía nam của bờ biển Phê-ni-ki là xứ Pa-lét-tin, nơi các chi tộc Ít-ra-en sinh sống trong thời Cựu ước.
Xứ Pa-lét-tin có chiều dài 240 km, chiều rộng từ 40 đến 150 km, diện tích chừng 2.500 km2 ; phía bắc giáp núi Li-băng; phía đông và nam giáp sa mạc, phía tây giáp Địa-trung-hải. Từ tây sang đông có 4 miền chính, chạy từ bắc tới nam:
* Miền duyên hải: Phía bắc có núi Các-men cao 530m. Phía nam là đồng bằng. Bờ biển này không có cửa biển tốt.
* Miền núi: là nơi ở chính của dân Ít-ra-en xưa, cao trung bình 500-900m. Từ bắc xuống nam, miền núi lại chia thành:
   - Xứ Ga-li-lê: Ở phía bắc cao hơn, phía nam thấp hơn (có Na-da-rét, núi Ta-bo).
   - Xứ Sa-ma-ri: Có hai ngọn núi cao nhất là Gơ-ri-dim (881m) và Ê-ban (940m), giữa hai ngọn là thung lũng Si-khem.
   - Xứ Giu-đa: Cao hơn xứ Sa-ma-ri, có núi Ô-liu (814m) ở phía đông thành Giê-ru-sa-lem (750m); về phía nam có Bê-lem và Khép-rôn.
* Thung lũng sống Gio-đan: Sông này bắt nguồn từ sườn phía nam núi Li-băng, rồi chảy vào hồ Ti-bê-ri-a (cũng gọi là hồ Ghê-nê-xa-rét hay Biển Ga-li-lê). Mặt hồ ở 220m dưới mực nước Địa-trung-hải. Hồ này dài 21km, rộng 11km, sâu 45m, nước ngọt, nhiều cá.
Ra khỏi hồ Ti-bê-ri-a, sông Gio-đan chảy qua một thung lũng sâu (trong thung lũng này có Giê-ri-khô, một thành cổ bậc nhất thế giới) rồi đổ vào biển Chết. Biển này dài 76km, rộng 16km, mặt nước ở đó thấp hơn mặt Địa-trung-hải 390m, chỗ sâu nhất là 400m (tức là 790m so với mặt Địa-trung-hải). Nước có muối và khoáng chất đậm đặc gấp 6 lần nước biển thường, không có sinh vật nào sống được, do đó mà gọi là biển Chết.
* Cao nguyên phía đông sông Gio-đan, xưa có rừng rậm và đồng cỏ.
Nói chung, khí hậu miền Pa-lét-tin ôn hoà và lành. Mưa tương đối ít: lượng mưa trung bình hàng năm là 55cm tại Giê-ru-sa-lem, 20cm trong thung lũng sông Gio-đan và vùng giáp sa mạc phía nam. Đất đai không giầu lắm. Nền kinh tế căn bản là nông nghiệp (lúa mì, nho, ô-liu, vả) và chăn nuôi (cừu, dê, bò, lừa). Dân số thời thịnh nhất (thế kỷ 8) ước chừng một triệu. Riêng tại Giê-ru-sa-lem có khoảng 30.000 dân.

KHÁI QUÁT VỀ THÁNH KINH CỰU ƯỚC

1. CỰU ƯỚC LÀ GÌ ?
          Theo thuật ngữ Hán tự, Cựu là cũ, xưa; Ước là hẹn. Cựu Ước là giao ước cũ.
          Theo nghĩa của bài, Cựu Ước là một bộ sách gồm có 46 cuốn (qui điển của Giáo Hội Công Giáo), thuộc nhiều thể văn khác nhau như: sử ký, truyền kỳ, luật pháp, giảng thuyết, khuyên răn, truyện để dạy đời, thi ca… “Những cuốn này do nhiều tác giả Thánh Kinh sưu tầm và viết lên, ấn bản vào nhiều thời khác nhau. Những phần cổ nhất được chép thành văn vào khoảng 1000 năm trước khi Chúa Giê-su sinh ra, còn những phần mới nhất chừng gần 100 năm trước thời Người”[1].
Nội dung của Thánh Kinh Cựu Ước nói về công trình sáng tạo của Thiên Chúa, sự sa ngã của loài thụ tạo, lời hứa cứu độ cho toàn thể thụ tạo nói chung và loài người nói riêng, qua việc Thiên Chúa chọn lựa Áp-ra-ham và dân Do-thái như một dụng cụ hay phương tiện để dọn đường, tiên báo, thực hiện và hoàn thành công trình cứu độ của Người cho toàn thể thụ tạo trong Đức Ki-tô. Lịch sử dân này trải qua nhiều thời đại khác nhau trong một thời gian khá dài: khoảng từ năm 1900 TCN đến hết năm 1 TCN.
2. Các sách Cựu Ước
Cựu Ước gồm 46 cuốn được phân chia như sau:
a. Ngũ Thư ( sách Luật Mô-sê)
          - Khái niệm: Là năm cuốn đầu tiên của Thánh Kinh Cựu Ước bao gồm: Sáng thế, Xuất hành, Lê-vi, Dân số và Đệ nhị luật; nói về công trình sáng tạo của Thiên Chúa, sự sa ngã của toàn thể loài thụ tạo và lời hứa cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người qua việc Ngài chọn ông Áp-ra-ham và thành lập dân Ít-ra-en trong sa mạc với Giao ước và lề luật.
          - Sứ điệp: là bộ luật, Ngũ thư đã đặt nền cho Do-thái giáo và còn minh chứng đạo Cựu Ước là đạo mặc khải: Thiên Chúa đã tỏ cho những người sống trong những thời đại và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Người đã can thiệp cách đặc biệt vào sự tiến triển của loài người.
          Lời hứa, giao ước, luật là những tư tưởng chính gắn kết với nhau xuyên suốt Ngũ Thư. Bài học luân lý và đạo đức đối với chúng ta ngày nay vẫn còn y nguyên, bởi vì Chúa Giê-su đã kiện toàn luật Cựu Ước (x. Mt 5,17), nên đức tin Ki-tô giáo đòi chúng ta có một tâm tình đối với các thực tại của luật mới là Tin Mừng tương tự như tâm tình của dân Ít-ra-en xưa đối với Luật. Hơn nữa, đối với mỗi Ki-tô hữu, lịch sử mà Ngũ Thư kể lại còn có ý nghĩa của cuộc hành trình đi tới Thiên Chúa, trong đó mỗi sách tiêu biểu cho một chặng đường, và mỗi sách đều chứa đựng một bài học riêng về thái độ của con người đối với Thiên Chúa.
          b. Các sách Lịch sử
          - Khái niệm: Là những cuốn sách nói chung về ba giai đoạn lịch sử của dân Ít-ra-en: Thời kỳ trong đất hứa; Thời kỳ lưu đày và hậu lưu đày; Thời kỳ cuối hậu lưu đày, bao gồm có 16 cuốn (Giô-suê, Thủ lãnh, 1&2 Sa-mu-en, 1&2 Các Vua, Rút, 1&2 Sử biên niên, Ét-ra, Ét-te, 1&2 Ma-ca-bê, Tô-bi-a, Giu-đi-tha và Nơ-khê-mi-a).
          - Sứ điệp: các sách lịch sử, với dạng thức cuối cùng, là công trình biên soạn của những người sùng đạo đã thấm nhiễm những tư tưởng của Đệ nhị luật. Họ suy tư về quá khứ dân tộc họ và từ đó rút ra một bài học về tôn giáo. Nhưng các sách ấy cũng lưu truyền cho chúng ta những khẩu truyền, bút tích đã có từ thời tiến vào Đất Hứa, tường thuật các sự kiện nổi bật trong lịch sử Ít-ra-en. Nếu lịch sử này được trình bày như một “lịch sử thánh”, thì nó cũng giảm thiểu sức hấp dẫn đối với các sử gia; nhưng trái lại, nó có giá trị đối với các tín hữu. Bởi vì thông qua lịch sử ấy, chúng ta không những nhận biết bàn tay Thiên Chúa trong mọi biến cố thế trần, nhưng còn nhìn thấy sự ân cần và tình thương bao la của Thiên Chúa đối với Dân Người tuyển chọn, sự phát triển tiệm tiến chuẩn bị cho dân Ít-ra-en mới là cộng đồng những kẻ tin.
          c. Các sách Giáo huấn
          - Khái niệm: Là những cuốn sách chứa đựng một kho tàng phong phú, thâm sâu về sự khôn ngoan và lối suy tư của người Do-thái về tôn giáo, nhân sinh quan, vũ trụ quan, cuộc sống và đức tin của họ, bao gồm 7 cuốn: Gióp, Thánh vịnh, Châm ngôn, Giảng viên, Diễm ca, Khôn ngoan, Huấn ca.
          - Sứ điệp: các sách giáo huấn trong Thánh Kinh mang tính chất nhân bản sâu xa. Một đàng nó dựa trên những lý luận của nền luân lý tự nhiên để tìm ra những mối tương quan cũng như những nghĩa vụ của mọi người nói chung; nhưng đàng khác nó còn liên hệ với Thiên Chúa và Luật của Người mang tính siêu việt hơn.
          Phổ quát chứ không hạn hẹp vào những tham vọng quốc gia của Ít-ra-en: suy nghĩ về con người bất phân chủng tộc trong những mối liên lạc tín ngưỡng với Thiên Chúa, Đấng tạo thành và an bài mọi sự.
          Đề cao luân thường đạo lý. Tán dương các nhân đức, luật trung dung, lấy lòng kính sợ Thiên Chúa làm nền tảng đời sống khôn ngoan. Các nghĩa vụ gia đình và xã hội đều bắt nguồn từ nguyên tắc đạo đức này.
          Lấy độc thần giáo làm căn bản. Tất cả tín ngưỡng và luân lý của Cựu Ước đều xoay quanh ý niệm một Đấng tối cao, nhân hậu mà công thẳng, đồng thời tỏ ra rất quan tâm đến con người.
          Những tư tưởng vừa kể làm nổi bật các tác phẩm giáo huấn của sách thánh về phương diện luân lý, phù hợp với truyền thống đạo đức chung của Ít-ra-en.
          d. Các sách Tiên tri
          - Khái niệm: Là những sách được sưu tầm và ấn bản theo danh tính của từng ngôn sứ qua các thời đại khác nhau với các sứ điệp khác nhau của chính Thiên Chúa cho Ít-ra-en và cho toàn thể thế giới, bao gồm 18 cuốn: I-sa-i-a, Giê-rê-mi-a, Ai ca, Ba-rúc, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en, Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Ô-va-đi-a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a và Ma-la-khi.
          - Sứ điệp: vì là những con người của tôn giáo, các ngôn sứ nhìn mọi sự dưới cái nhìn tôn giáo, kể cả những biến cố chính trị, những sự kiện văn hóa đời thường. Các ngôn sứ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc mở mang tôn giáo ở Ít-ra-en, không những họ đã giữ gìn và hướng dẫn dân trong đường lối đạo đức của Gia-vê, mà họ còn là những bộ phận chính cho sự phát triển tiệm tiến của mặc khải trong công việc đa dụng ấy, mỗi vị đã có một vai trò riêng và đã góp phần xây dựng cho tòa lâu đài đạo lý. Điểm chung tư tưởng của họ là: Độc thần, một nền luân lý, và lòng mong chờ Đấng Mê-si-a.                                                                                                           
3. Thể văn Cựu Ước
          Lời Chúa không được thông truyền cho chúng ta trực tiếp, nhưng nó thường mặc một hình thức của nhân loại. Vì Thiên Chúa muốn dùng con người để thông truyền sứ điệp của Ngài. Chúng ta cần phải hiểu biết cách suy tư và diễn tả của những vị đó. Bộ Thánh Kinh hình thành trong suốt 12 thế kỷ, nên các tác giả sách thánh chịu ảnh hưởng môi trường sống của các ngài như văn hóa Su-mer Ak-kad, Ca-na-an, Ai-cập và Hy-lạp nữa. Hơn nữa, Ít-ra-en còn có những đặc điểm riêng của Giao ước Mô-sê, là người lập ra mối hiệp thông duy nhất với Thiên Chúa cho dân. Các tác giả sách thánh dùng những kiểu cách để diễn tả sứ điệp mà các ngài truyền bá. Ta gọi những kiểu diễn tả là văn loại Thánh Kinh. Cựu Ước bao gồm rất nhiều thể văn như: lịch sử, tích truyện, ngôn sứ, ...
          - Loại văn Lịch sử: Loại văn này là mảnh đất vững vàng và phì nhiêu là cơ sở cho những loại văn khác. Nhưng nên nhớ, lịch sử Thánh Kinh lúc nào cũng là phương tiện chứ không phải là mục đích. Các sứ giả tân thời cố làm sao cho trình thuật của mình phù hợp với biến cố xảy ra, nhưng các tác giả Thánh Kinh chỉ dùng các sự kiện mà các ngài ghi lại làm điểm tựa để trình bày đạo lý. Các vị không có ý làm cho trình thuật của mình phù hợp với toàn bộ biến cố, nhưng trình bày theo một phương diện đặc biệt của biến cố hầu đạt đến mục đích mà các vị theo đuổi. Do đó, đôi khi có những chỗ giản dị hóa, bỏ qua, nhấn mạnh. Hơn nữa, tác giả coi lịch sử là sự hiện thực chương trình cứu độ của Gia-vê đối với Ít-ra-en, nên phép lạ là một phần trong lịch sử ấy. Sau hết, tác giả sách thánh dùng nhiều hình thức trong văn loại lịch sử đương thời đang sử dụng với nhiều hình thức khác nhau như: Lịch sử có tính chất tài liệu, lịch sử hùng ca, lịch sử dân gian, lịch sử thời khởi nguyên, lịch sử khuyến thiện và trình thuật giáo dục.
          - Loại văn tự tình: thể văn này được sử dụng nhiều trong Thánh Vịnh, đồng thời trong các bài thương ca, các phần vịnh trong tác phẩm lịch sử và tiên tri, sách Diệu Ca. Ngoài ra, còn xuất hiện trong các bài ca khải hoàn của My-ri-am, Đơ-bô-ra (x. Xh 15; Tl 5), thậm chí cả những bài ca yến ẩm (x. Is 22,13; 56,12). Thể loại này thường là thi ca. Luật cơ bản nhất trong thi văn Sê-mít là song đối: câu văn có hai vế bổ túc cho nhau dưới hình thức tương đồng (x. Gv 2,2), hay trái nghịch (x. Kn 10,1). Câu thơ có vần điệu theo luật bằng trắc. Hai ba câu thơ hợp thành một tiết. Thơ trữ tình dồi dào về hình ảnh và so sánh sinh động: quan niệm nhân hình về Thiên Chúa (x. Xh 15,8); nhân hóa các vật vô tri (x. Tv 7,8).
          - Loại văn Giáo dục: Tất cả các sách Khôn Ngoan được trình bày dưới thể văn này. Đúng với tên của nó, loại văn nhằm trình bày lời khuyên dạy. Các tác phẩm loại này thường viết theo văn vần và có nhiều dạng khác nhau: Châm Ngôn, Ẩn Ngữ, Dụ Ngôn, Ngụ ngôn. Những tác giả có thể triển khai trong trình thuật: Tô-bi-a, Giu-se.
          - Loại văn Pháp chế: Thể văn này có quan hệ với Giao ước vì giao ước bao hàm tuân giữ Lề Luật. Đây là hành văn của ngũ thư (đặc biệt là sách Đệ Nhị Luật và “luật Thánh đức” (x. Lv 17-26). Về hình thức văn thể này có dạng câu điều kiện: “Nếu kẻ nào đả thương chết người, tất cả phải chết” (Xh 21,12) hay sử dụng thì tương lai ở dạng thường: “Ngươi sẽ không giết người” (Xh 20,13). Dạng thứ nhất tức là hình thức vấn nạn, một hình thức du nhập từ một khoản luật thông thường của nước ngoài. Dạng thứ hai có một thể văn đặc biệt của truyền thống Đa-vít.
          - Loại văn Ngôn sứ: loại văn chương Tây Phương hiện đại không có hình thức văn chương này. Người ta sử dụng khi trình  bày hoạt động ngôn sứ: trong các tác phẩm lịch sử, đặc biệt các tác phẩm ngôn sứ. Loại văn này không tách biệt hoàn toàn nhưng người ta thấy chúng ở dạng pha phôi với các thể văn khác: lịch sử, trữ tình và khôn ngoan. Vì thế có những phần tự thuật, có những chi tiết nói về bối cảnh lịch sử, xã hội và tôn giáo. Đôi khi biểu hiện tâm tình rất mãnh liệt (thí dụ Hô-sê, Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en). Ít nhất cũng cầu nguyện (x. Is 44,23). Có những lúc, giáo huấn của Ngôn sứ rất trừu tượng, giống như hành văn của các hiền triết (x. Is 11,1-4).
          Yếu tố chủ yếu nhất là sấm ngôn, loại này được trình bày theo dạng mẫu: “Đây là lời Gia-vê phán” và kết thúc là “sấm của Gia-vê” (điển hình Gr 9, 22-23). Loại khác là sấm ngôn khuyên nhủ: đây là loại chú giải sấm ngôn, với hình thức này, ngôn sứ biểu lộ tính khí một cách bộc trực hơn (x. Is 34, 1-5). Sấm ngôn và khuyến dụ thường có các hình ảnh miêu tả phụ họa và các cử chỉ diễn ý.
          - Loại văn Khải huyền: loại này gần với thể văn ngôn sứ nhưng nét dị biệt khá rõ ràng. Thể văn này phát khởi thời Ê-dê-ki-en và Gia-ca-ri-a, triển khai trong sách Đa-ni-en và kết thúc với sách Khải Huyền của Gio-an. Loại văn này có đặc điểm: có các giấc mơ, thị kiến, các thiên thần hành động, nói đến các tai họa thiên nhiên, đối chiếu với lịch sử khi phê phán và coi trọng yếu tố cánh chung.
          BẠN CÓ BIẾT ?
CÁCH TRƯNG DẪN KINH THÁNH
Khi chưng dẫn Kinh Thánh, ta không nêu số trang nhưng nêu số chương (cũng gọi là đoạn) và số câu: Ví dụ, trưng dẫn sách Sa-mu-en quyển 1:
1 Sm 2: chương 2
1 Sm 2-3: chương 2 đến hết chương 3
1 Sm 2, 18     : chương 2 câu 18
1 Sm 2, 18-21: chương 2 câu 18 đến hết câu 21
1 Sm 2, 18. 26: chương 2 câu 18 và câu 26
1 Sm 2, 18-3, 19       : chương 2 câu 18 đến chương 3 câu 19
1 Sm 2, 18; 3,19       : chương 2 câu 18 và chương 3 câu 19
NGÔN SỨ
- Ngôn: Lời nói
- Sứ: Người được sai đến.
( Ngôn sứ: Người được Thiên Chúa sai đến để nói Lời của Ngài)

THIÊN CHÚA SÁNG TẠO VŨ TRỤ VÀ CON NGƯỜI

1. THIÊN CHÚA SÁNG TẠO VŨ TRỤ
a- Tạo dựng. St 1, 1-2, 4a nói về Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ. Đọc bản văn, chúng ta thấy trong một tuần, Thiên Chúa đã làm việc sáu ngày và nghỉ ngày thứ bảy (Sabát). Trong sáu ngày làm việc, Người đã sáng tạo các sự vật theo chương trình phân tách và trang trí. Chúng ta có thể hoạ đồ những công trình của Người như sau.

    Ngày
Phân tích
Ngày
Phân tích
1

2

3
Sáng / tối
(1, 3-5)
Nước trên/ nước dưới
( 1, 6-8)
Biển/ đất
(1, 9-10)
Cây cối
(1,11-13)
4

5

6
Mặt trời, trăng, sao
(1,14-19)
Cá/ chim
(1,20-23)
Thú vật ở đất
(1, 24-25)
Con người
(1, 26-31)
Tác giả nhằm một công việc thần học hơn là khoa học. Cách trình bày cũng như ngôn ngữ nhằm nói về Thiên Chúa và con người hơn là về vũ trụ một cách thuần tuý khoa học.
          b. Ý nghĩa của việc tạo dựng
          Sáng thế không có ý dạy ta về khoa học, nhưng được viết ra để khẳng định một chân lý rằng: Từ nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã tạo thành trời và đất (x. St 1, 1-2, 4a). Vậy trong trình thuật Sáng thế, Thiên Chúa tạo dựng trong 6 ngày và Ngài nghỉ ngơi ngày thứ bảy liệu có mâu thuẫn với khoa học? Các triết gia và thần học gia Ki-tô giáo cho biết:
          Thứ nhất, người cổ đại nói đến sáu ngày tạo dựng mà chúng ta chắc chắn không được hiểu theo nghĩa đen tương đương với khái niệm “ngày” như thời của chúng ta. Một ngày trong trình thuật Sáng thế có thể kéo dài hàng ngàn, hàng vạn năm, vì đó là trình thuật có tính cách thần thoại; hơn nữa, quan niệm của những tôn giáo ở Đông Phương cũng cho biết, một ngày ở thượng giới bằng một ngàn năm ở hạ giới, vì vậy không mâu thuẫn với khoa học rằng, vũ trụ trải qua quá trình tiến hoá lâu dài và chậm chạp.
          Thứ hai, trong trình thuật của mình, tác giả sách Sáng thế muốn dạy ta mỗi tuần chỉ nên làm việc sáu ngày và dành một ngày để thờ phượng Thiên Chúa. Thực tế cuộc sống cho thấy, trong hoạt động một tuần, con người dùng sáu ngày để lao động, sản xuất ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu ăn, mặc, ở và phương tiện đi lại. Tuy nhiên, đó không phải là tất cả nhu cầu của con người. Nhu cầu của con người còn có yếu tố tinh thần, cần được nghỉ ngơi sau những ngày lao động mệt nhọc và nhất là cần phải có nhu cầu tâm linh, vì chính ở đó, họ mới tìm được sự bình an đích thực. Vì vậy, tác giả sách Sáng thế muốn dạy chúng ta phải dành một ngày trong tuần để được bồi bổ về tinh thần qua việc đến với Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa sáng tạo con người
          a. Thiên Chúa sáng tạo con người giống hình ảnh Chúa
          Trong học thuyết tiến hoá của Darwin, con người là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới sinh vật chứ không phải được dựng nên từ bùn đất như Thánh Kinh đã nói. Nghĩa là Darwin đã dựa vào các bằng chứng của khảo cổ học và lập luận rằng, con người là do sự tiến hoá từ một loài vượn. Tuy nhiên, khi tìm hiểu kỹ lưỡng thì học thuyết đó không mâu thuẫn với chân lý được dạy trong sách Sáng thế.
          Như đã biết, sách Sáng thế không dạy những chân lý khoa học, nhưng có ý chuyển tải một ý nghĩa rằng, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ và tất cả mọi loài, trong đó có con người. Mặt khác, với nhãn quan của người Do-thái thời cổ đại, họ chỉ có thể trình bày chân lý ấy bằng phương pháp trực quan sinh động, chứ không theo phương pháp của khoa học như ngày nay. Vì vậy, việc Thiên Chúa tạo dựng nên con người từ bùn đất, hay từ những sinh vật đơn bào – đa bào… vượn - người thì cũng cùng một nghĩa rằng: thân xác con người được tạo nên từ một dạng của vật chất, nghĩa là sự sống tự nhiên. Hơn nữa, nhờ Đức tin mà chúng ta khám phá ra rằng: nguyên nhân cùng đích của sự tiến hoá thành người chính là Thiên Chúa. Và con người không chỉ có thể xác là một dạng của vật chất, mà còn có linh hồn, tức sự sống siêu nhiên vì được tham dự vào sự sống của chính Ngài.
           Khi nói: Thiên Chúa sáng tạo con người nên giống hình ảnh của Chúa, tác giả Thánh Kinh muốn chuyển tải một ý nghĩa rằng: con người được Thiên Chúa tạo nên có lý trí, có tự do và có tình yêu. Nghĩa là con người được Thiên Chúa cho tham dự vào những ưu phẩm của Ngài. Đây là một trong những điều quan trọng nhất mà Thánh Kinh khẳng định: con người không bị giam hãm vô vọng trong thế giới của các ảo ảnh do mình tạo nên; con người cũng không là tù nhân của các phạm trù, các cơ cấu do mình đặt ra. Con người được sáng tạo cho Sự Thật. Thiên Chúa có thể nói cho con người biết những điều cốt yếu bằng chính kinh nghiệm và ngôn ngữ của con người. Theo hình ảnh của Thiên Chúa, con người được sáng tạo và chắc chắn được sáng tạo để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
          Như vậy, Thánh Kinh đề cao phẩm giá con người, khi khẳng định con người xuất phát từ Thiên Chúa chứ không phải là sản phẩm ngẫu nhiên của thế giới vật chất. Chính điều này mà con người là đỉnh cao công trình sáng tạo của Thiên Chúa, là tạo vật hoàn hảo nhất, vượt trên tất cả mọi tạo vật, đúng như lời Thánh vịnh đã nói: “…
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
… cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo”
(Tv 8, 6-7)
          b. Sáng tạo con người có nam có nữ
          Thánh Kinh cũng cóù nói Thiên Chúa lấy xương sườn của ông A-đam để tạo nên bà E-và. Trình thuật này có ý nói rằng: người Nam và người Nữ được Thiên Chúa tạo nên để trợ giúp và bổ túc cho nhau trong sự yêu thương và tôn trọng lẫn nhau, vì cả hai đều là hình ảnh của Thiên Chúa, có cùng một phẩm giá như nhau; vợ chồng kết hợp với nhau nên một để cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trình thuật khác của sách Sáng thế cũng cho hay: “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2,18). Nghĩa là Thiên Chúa là Đấng không biết đến cô đơn, sáng tạo nên hai giới nam nữ không phải như phương thế bắt buộc để truyền sinh, nhưng để cho vợ chồng kết hợp trong tình yêu, sự trao hiến chính mình và chia sẻ hạnh phúc với nhau.
         BẠN CÓ BIẾT ?
CON NGƯỜI LÀ HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA
Khoa sinh vật học ngày nay cho biết rằng các sinh vật xuất hiện trên trái đất từ những thời kỳ khác nhau: những sinh vật đơn giản đã có trước, những sinh vật càng có cơ thể phức tạp càng xuất hiện muộn.
Cách đây 500-220 triệu năm: lần lượt xuất hiện các sinh vật không xương sống ở biển rồi đến cá, ếch, nhái. Cách đây 220-70 triệu năm: các sinh vật thuộc loài bò sát. Cách đây 70-1 triệu năm: các sinh vật thuộc lớp có vú. Cách năm 1 triệu năm trở lại: con người.
Người ta suy ra rằng đã có một sự tiến triển: các sinh vật có trước đã dần dần trở mình và nhảy vọt lên thành những sinh vật cao cấp hơn. Cách suy nghĩ ấy gọi là thuyết tiến hoá.
Theo cách suy nghĩ ấy, người ta cho rằng con người và vượn người có chung một nguồn gốc. Người ta ghi nhận giữa người và vượn người có những điểm giống nhau và những điểm khác nhau.
Những điểm giống nhau giữa người và vượn người:
Hình dạng và kích thước tương tự nhau. Não bộ, hệ thần kinh, hệ tuần hoàn và các tuyến nội tiết của đôi bên đều có cơ cấu và sự vận hành giống nhau. Cũng có một số bệnh chỉ gặp nơi con người và vượn người. Máu của hai bên đều gồm các loại A, B, AB, O, Rh.
Những điểm khác biệt giữa người và vượn người:
Chỉ có con người mới có dáng đứng thẳng. Não bộ của con người phát triển và có khối lượng vượt hẳn khối lượng não bộ của vượn người (1600 phân khối so với 600 phân khối). Đặc biệt chỉ có con người mới biết dùng lửa, trồng trọt, chế tạo dụng cụ. Điều khác biệt nhất là con người có ngôn ngữ: vượn chỉ biết kêu, còn người thì biết nói.
Ngôn ngữ chứng tỏ con người có ý thức, có tư duy trừu tượng, biết suy luận. Đó là chỉ mới so sánh bên ngoài thôi, chưa nói đến tự do và tình yêu mến.
Tất cả những điều ấy cho thấy con người được dựng nên thật cao cả.
“Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,
Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?”
(Tv 8)

Những vấn nạn
- Quan điểm vô thần
Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển không ngừng của khoa học, đặc biệt là những đột phá ngoạn mục trong ngành vũ trụ học đã vô tình củng cố thêm luận cứ cho một hoài nghi về vấn đề hiện hữu của Thiên Chúa cũng như nguồn gốc thực sự của vũ trụ. Nhiều người từng kết luận, những hiểu biết khoa học về quá trình tiến hóa của vũ trụ đã làm suy giảm đức tin tâm linh của con người. Kết luận này được bắt nguồn từ cách hiểu về Thánh Kinh rằng, trong trình thuật về sự sáng tạo, Thiên Chúa đã tạo dựng nên toàn cõi vũ trụ trong vòng sáu ngày (x. St 1, 3-31), do đó mâu thuẫn với quan điểm của các nhà khoa học ngày nay: vũ trụ bắt đầu từ một “vụ nổ” và thường được gọi với thuật ngữ “Big Bang” - một học thuyết được Georger Gamow đưa ra vào năm 1948 [1]. Học thuyết này cho biết, sau hàng tỷ năm, các ngôi sao và thiên hà bắt đầu hình thành, nghĩa là vũ trụ của chúng ta phải trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài và chậm chạp chứ không phải là trải qua sáu ngày như Thánh Kinh đã nói.
Quan điểm thịnh hành ở thời điểm đó cho rằng, vũ trụ trong trạng thái tồn tại vĩnh hằng nên không có khởi điểm, nghĩa là không có bàn tay của Thiên Chúa hay của một vị thần nào trong sự xuất hiện của nó. Đại diện tiêu biểu nhất cho quan điểm này là học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo họ, vũ trụ là sản phẩm thuần tuý của tự nhiên chứ không phải là công trình sáng tạo của Thiên Chúa hay một vị thần nào khác.
- Quan điểm hữu thần
Đối lập với quan điểm vô thần, các nhà khoa học hữu thần khẳng định, vũ trụ phải có một thời khắc khởi đầu trong quá khứ chứ không phải tự nó được hình thành như lập luận của các nhà khoa học vô thần. Họ khẳng định, khi chúng ta lấy sự hiểu biết của thời đại mình để đo lường tri thức thời tiền sử như vậy, thì đích thực là giả thuyết và phương thức giải quyết vấn đề của Thánh Kinh và khoa học lại không tương thích với nhau. Thực tế cho thấy, có rất nhiều quan điểm coi lý thuyết "Big Bang" như là một lời khẳng định ý niệm của Thiên Chúa về sự tạo thành vũ trụ. Bằng chứng đầu tiên của lý thuyết "Big Bang" được khám phá vào năm 1929 bởi nhà thiên văn người Mỹ Edwin Hubble. Các quan sát của Hubble chỉ ra rằng: vũ trụ đang giãn nở [1]. Không ít nhà khoa học đã bác bỏ ý kiến này, bởi theo họ, nó mang bóng dáng tư tưởng của tôn giáo. Nếu vũ trụ có một khởi đầu thì phải có một Đấng tạo hóa và cũng đồng nghĩa với việc không có chỗ cho khoa học. Tuy nhiên, khám phá của Hubble về sự giãn nở của vũ trụ đã đặt dấu chấm hết cho một vũ trụ tĩnh không thay đổi theo thời gian; đồng thời nó cũng đưa chúng ta tới một suy luận rằng, vũ trụ có một thời khắc khởi đầu xác định trong quá khứ. Hơn nữa, quan niệm này đã củng cố cho thuyết tương đối rộng của Einstein, mà ở đó, nó đưa ra một loạt các phương trình phức tạp để miêu tả cách thức mà vũ trụ xuất hiện từ hư không, nghĩa là phải có bàn tay tác động của Đấng Tạo Hoá. Vậy ai đã tạo ra vũ trụ vật chất này? Ai đã làm ra các định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng vào trong vật chất? Ai đã làm cho sự sống được nảy sinh và tiến triển theo một chiều hướng đi lên?


TỘI NGUYÊN TỔ VÀ LỜI HỨA BAN ĐẤNG CỨU ĐỘ

1. Con người bị cám dỗ và sa ngã
          Theo trình thuật Thánh Kinh, “rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ở ngoài đồng mà Thiên Chúa đã làm ra” (St 3, 1). Con rắn  tượng trưng cho một quyền lực ác cám dỗ con người để phá vỡ hạnh phúc của họ. Trong văn chương các dân tộc Trung Đông, rắn vừa là loài độc ác, vừa là loài linh thiêng. Tuy nhiên, chúng ta phải khẳng định rằng: Cái xấu không đến từ Thiên Chúa bởi vì Ngài tạo dựng nên mọi sự đều tốt đẹp.
          a. Cám dỗ
          Chúng ta vẫn thường nghe người ta nói tới trái táo hay trái cấm, nhưng thực ra trong bài trình thuật Thánh Kinh mà chúng ta vừa nghe, không hề có trái táo hay trái cấm nào cả, mà đó là cây biết điều thiện ác và hoa trái của nó. “Cơn cám dỗ đến và nguỵ trang dưới chiếc áo tốt lành là quyến rũ ta đi tìm sự khôn ngoan. Nên biết, người xưa dùng động từ ăn chỉ việc học đi học lại cho thuộc lòng những lời nói của các thánh hiền: người ta ăn những hoa trái của sự khôn ngoan. Cây cho biết thiện ác có nghĩa là nghệ thuật sống và thành công và cũng chính là sự tự do của con người mở ra cho nó con đường dẫn tới thiện và ác, sống và chết. Ở đây, Thiên Chúa lại đặt con người trong một hoàn cảnh có mâu thuẫn, khi để sự khôn ngoan ở trong tầm tay của họ, nhưng đồng thời lại nói: Ngươi không được ăn. Vậy trước hết, con người phải khước từ việc chiếm đoạt sự khôn ngoan để rồi cho rằng mình giống như Thiên Chúa biết điều thiện ác”.
          Như vậy, điều con rắn nói là không sai: đối với con người, đâu có gì là quá cao vời, không với tới được. Nhưng nó cũng khơi gợi nơi lòng con người sự nghi ngờ đối với Thiên Chúa.
          b. Sa ngã
          Cuộc đối thoại tay ba (Thiên Chúa – A-đam, E-và) trong trình thuật Thánh Kinh mà chúng ta vừa nghe cho thấy, người đàn bà thèm ăn, nhưng người đàn ông mới thật sự là thủ phạm. Người đàn bà dụ dỗ, vì trong thời đó, điều này là sự thật vì tác giả thấy nhởn nhơ trong xã hội mình cảnh người ta khai thác phụ nữ, cũng như cái khéo léo của kẻ bị người khác khai thác để lấy lòng các ông chủ của họ. Nhưng vì thấy hai bên không đau khổ đồng đều, nên tác giả kết luận là chắc chắn người đàn bà là người đầu tiên đã bất trung với Thiên Chúa. Hai chi tiết: một là Mắt ông bà sẽ mở ra – để thấy mình trần truồng; hai là Ông bà sẽ nên như vị thần biết điều thiện ác – mà ở đây, họ chỉ còn có biết đến cái ác. Điều này nói lên cách mỉa mai về nỗi thất vọng ê chề của người có tội.
          Như vậy, con rắn và bà E-và không biểu trưng cho ma quỉ cám dỗ hoặc người nữ là nguồn gốc của mọi yếu hèn đáng bị quở trách. Cả con rắn và bà E-và đều là thụ tạo của Thiên Chúa, nhưng cả hai đều có ý đồ muốn làm Thiên Chúa hay bằng Thiên Chúa mà không cần đến Ngài. Ngay cả ông A-đam cũng thế, ông cũng có ý đồ như vậy. Họ đều là những con người trưởng thành, có trí khôn, có hiểu biết và có tự do. Họ biết giao ước giữa họ và Thiên Chúa: lệnh cấm ăn trái cây của cây biết lành dữ chính là ranh giới giữa Đấng Sáng tạo và loài thụ tạo. Cả A-đam, E-và cũng như con rắn đều biết điều này, nhưng tất cả đều đã chọn không ở trong hàng thụ tạo của mình. Chính sự chọn lựa do lòng tự phụ và bất phục tùng này là nguyên nhân của tội lỗi.
2. Hậu quả của tội nguyên tổ
          Con người được dựng nên để sống thân mật với Thiên Chúa. Mỗi lần nghe bước chân Chúa đến, lẽ ra con người phải sung sướng reo lên: “Lạy Chúa con đây”. Thế nhưng sau khi phạm tội, con người đã chạy trốn Thiên Chúa khiến Ngài phải lên tiếng hỏi: “A-đam, ngươi ở đâu?” (St 3, 9).
          Thực tế cuộc sống cho thấy, nếu chúng ta biết sử dụng đúng đắn tự do để mưu cầu hạnh phúc cho mình và cho người khác, thì cuộc đời sẽ trở nên tốt đẹp và bình an. Nhưng nếu con người chỉ dùng tự do theo ý riêng mình mà thôi, mặc kệ tự do của người khác, kể cả tự do của Thiên Chúa, con người có thể vui hưởng được giây lát, trong tạm bợ và ảo tưởng, nhưng rồi chỉ mang hại đến cho mình: ngại đối thoại với Thiên Chúa và với những người đạo đức, nên hậu quả của tội lỗi được thể hiện ra là:
          a. Cắt đứt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa
          Sau khi sa ngã, A-đam và E-và mất quân bình khi thấy mình trần truồng (x.St 3,7) và chạy trốn Thiên Chúa (x.St 3,8). Họ biết mình trần truồng, tức là họ mất đi giao ước không còn hưởng phúc sống chung với Thiên Chúa trong vườn địa đàng và không còn hưởng ân huệ trường sinh. Đánh mất sự hòa hợp với Thiên Chúa, con người bị chia rẽ và xáo trộn nơi chính bản thân mình. Và hậu quả bi đát nhất là con người phải chết. Cái chết đã đến với con người, nên sinh ra là người ai cũng phải chết (x.Rm 5,12). Và từ tội đầu tiên này, tội lỗi đã lan tràn và thống trị khắp thế giới. "Nhìn sâu tận đáy lòng mình, con người cũng khám phá ra rằng, mình đã hướng về sự dữ và đã ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ là những điều không thể xuất phát từ Đấng Tạo Hóa. Nhiều khi từ chối không nhìn nhận Thiên Chúa như nguyên ủy của mình, con người cũng đã phá đổ trật tự phải có để đạt tới cứu cánh.
          b. Cắt đứt mối quan hệ giữa con người với con người
          Giữa A-đam và E-và không còn cảm nghiệm hiệp nhất như trước nữa, không còn tin tưởng ở nhau, người này đổ lỗi cho người kia và không ai chịu nhận lỗi về mình (x.St 3,16). Từ tội đầu tiên này cả trần thế bị chìm trong tội lỗi: huynh đệ tương tàn, khởi đầu là Ca-in giết A-ben (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cũng vậy, trong lịch sử Ít-ra-en, tội thường xuyên xuất hiện, nhất là dưới dạng bất trung với Thiên Chúa và sự vi phạm luật Mô-sê; cả sau khi Đức Ki-tô đã sống lại, tội vẫn tiếp tục xuất hiện dưới nhiều dạng ngay giữa những người Ki-tô hữu (x. 1Cr 1-6; Kh 2-3). Thánh Kinh và truyền thống Hội Thánh không ngừng nhắc nhở tội hiện diện khắp nơi trong lịch sử loài người: Điều Thiên Chúa mặc khải cho ta biết, cũng được kinh nghiệm của ta xác nhận. Bởi Vì nếu nhìn sâu tận đáy lòng, con người cũng khám phá ra mình hướng về sự dữ, và ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ là những điều không thể xuất phát từ Đấng Tạo Hóa tốt lành.
          c. Cắt đứt mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên
          Không còn hoà thuận với nhau, A-đam và E-và mất đi quyền thống trị muôn loài trong hoà bình và trong công lý. Đất đai đã chống lại con người và con người phải vất vả cực nhọc mới chinh phục được thiên nhiên. Cuối cùng, con người phải trở về bụi đất (x.St 3,18-19).
3. Lời hứa ban Đấng Cứu Độ
          Khi đã phạm tội chống lại Thiên Chúa, con người trở nên thù địch của Ngài. Thế nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương tha thứ. Thiên Chúa đã dựng nên con người thật cao quí. Ngài không nỡ thấy tạo vật ấy bị hư hỏng luôn, cho nên Ngài tìm mọi cách để cứu vãn. Ngài đã hứa ban Đấng Cứu thế đến để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá cho họ và cho họ được trở lại trạng thái ban đầu là sống thân tình với Thiên Chúa (x. St 1, 15).
          Thật ra tội lỗi con người không làm hỏng chương trình của Thiên Chúa, mà là cơ hội Thiên Chúa biểu lộ tình thương xót nhân từ không biết mệt mỏi của Người, hầu đưa toàn thể nhân loại đạt tới cùng đích của mình là sự sống muôn đời. Việc Chúa Ki-tô khải hoàn vinh thắng đã mang lại cho chúng ta những lợi ích lớn lao hơn là những gì mà tội đã làm mất đi. "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5, 20).
          BẠN CÓ BIẾT ?
HA-LÊ-LUI-A / ALÊLUIA
Trong tiếng Híp-ri, Hallel có nghĩa là ngợi khen. YA là “Gia-vê” (YAWH). Halleluia nghĩa là “ngợi khen Gia-vê”; “ngợi khen Thiên Chúa”.
AMEN
Trong tiếng Híp-ri có nghĩa là “quả thật, đúng như vậy”, cũng có thể dịch là: “Được, hoan hô, đồng ý, tán thành” và “ước được như vậy”.
BẢN DỊCH BẢY MƯƠI
Bản dịch Kinh Thánh đầu tiên từ tiếng Híp-ri sang tiếng Hy-lạp, công việc kéo dài 100 năm (250-150 trước công nguyên) do 70 người thực hiện.
BẢN DỊCH PHỔ THÔNG
Bản dịch Kinh Thánh sang tiếng La-tinh nhằm phổ biến rộng trong Hội Thánh Công Giáo, do thánh Giê-rô-ni-mô (347-419) thực hiện.
THỦ BẢN BIỂN CHẾT
Người Do Thái xưa chép Kinh Thánh trên những cuộn giấy da. Họ sao chép từng mảng, hết sức tỉ mỉ, không để sai chạy một nét nào. Những cuộn Kinh Thánh đã quá cũ được xếp vào một chỗ riêng để tự hoại theo thời gian. Vì thế, ta không có được những thủ bản bằng tiếng Hip-ri trước thế kỷ thứ XIX. May thay vào năm 1947, tại Cum-ran (Qumran) gần biển Chết, giữa tàn tích của một tu viện phái Ét-xê-nô người ta tìm thấy một thư viện chôn dấu từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Trong đó, có những miếng da sao chép Kinh Thánh của tất cả các sách trong bộ Cựu ước (trừ sách Ét-te). Nhiều bản còn nguyên vẹn. Sách I-sa-i-a đầy đủ từ đầu đến cuối. Những tài liệu này có từ thế kỷ thứ II hoặc thế kỷ thứ I trước công nguyên, nhưng đối chiếu với các bản văn tiếng Híp-ri thế kỷ thứ IX ta thấy một sự trùng khít đáng kinh ngạc.


ÁP-RA-HAM VÀ CÁC TỔ PHỤ KHÁC

1- Tổ phụ là ai ?
          Theo thuật ngữ, “tổ phụ” mang nhiều ý nghĩa khác nhau, nhưng ở đây chỉ muốn nói về các tổ phụ đầu tiên của dân tộc Ít-ra-en: Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp và Giu-se. Đó cũng là quan niệm thông thường. Có trường hợp người ta nói “các tổ phụ trước Hồng Thủy”(x. St 5), nhưng các tổ phụ này thuộc về một thời đại khác và cần cứu xét theo mọt đường lối khác. Ở đây chỉ xin thông qua vấn đề này. Khi nói đến các tổ phụ, có thể người ta muốn nói các con của Gia-cóp, nhưng thực ra thời tổ phụ kéo dài từ khi Áp-ra-ham được Thiên Chúa gọi cho đến khi các thị tộc nhà Gia-cóp di cư sang Ai-cập.
2 – Tổ phụ Áp-ra-ham
          a - Thiên Chúa gọi Áp-ra-ham
          Vào khoảng năm 1800 TCN, một số bộ lạc du mục cùng với đoàn súc vật của họ rời xứ Ca-đê đến sinh sống tại Ai-cập. Trong các bộ lạc và thị tộc du mục ấy, có một số gia đình mà người đứng đầu là ông Áp-ra-ham[1]. Ông là một người phú quí nhưng lại không có con: Thiên Chúa Duy Nhất đã được mạc khải cho ông, và với ông, công trình cứu độ đã bắt đầu cho một dân tộc. Vì vậy, Trong cuộc di dân rời khỏi Ca-đê, Áp-ra-ham ấp ủ một niềm hy vọng lớn lao là tin vào lời hứa của Đấng mà ông gọi là Thiên Chúa đã gọi ông: “Ngươi hãy bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cửa thân phụ ngươi, để đi đến một miền Ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc vĩ đại” (St 12, 1-2).
          Việc Thiên Chúa gọi Áp-ra-ham bắt đầu cách khá đột ngột, nhưng đây là khởi điểm của một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ, do sáng kiến của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa nói cho ông biết ý Ngài, gồm một lệnh truyền và một lời hứa. Lệnh truyền rời bỏ quê hương họ hàng mà ra đi. Đối với người du mục, đó là một sự cắt đứt lớn lao và liều lĩnh, nhất là khi ông Áp-ra-ham phải bỏ để đi đến một nơi chưa xác định. Lời hứa là Thiên Chúa sẽ ban phúc lành. Áp-ra-ham đã vâng lệnh ra đi. Ông không nói gì, không hỏi lý do và ra đi như một người mất gốc bơ vơ, chỉ tin tưởng và dựa dẫm vào lời Thiên Chúa. Ông phó thác vận mệnh của mình cho Thiên Chúa và quyết lên đường tìm kiếm Đấng mà ông chưa hề biết, nhưng sẽ dủ lòng thương xót và ban cho vợ chồng ông một mụn con. Ông đã ra đi vì muốn đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa. Niềm hy vọng chớm nở trong tái tim, Áp-ra-ham cảm thấy như một lời hứa của Thiên Chúa.
          b - Lời hứa của Thiên Chúa
          Để thể hiện mối liên hệ thân thiện, Thiên Chúa đã thiết lập minh ước với Áp-ra-ham bằng cách ban cho ông lời hứa. Nội dung của lời hứa bao gồm:
- Một dân tộc sẽ phát xuất từ Áp-ra-ham.
- Một đất nước thuộc quyền sở hữu của dân tộc này.
- Một phúc lành của Thiên Chúa được ban xuống cho các dân trên thế giới nhờ Áp-ra-ham.
          Kể từ đó, trong những năm tháng dài lê thê của tuổi già, Áp-ra-ham cứ tiếp tục đi theo một lộ trình dài, nhưng đó cũng là một cuộc hành trình nội tâm, một cuộc hành trình của đức tin. Ông dám từ bỏ mọi quyến luyến của gia đình xứ sở, trở thành cô độc trước mặt Thiên Chúa, hoàn toàn tín nhiệm vào một mình Thiên Chúa là Đấng tối cao. Sau cùng, chính Thiên Chúa ban cho ông một mụn con mà ông hằng ao ước, đó là I-xa-ác – khởi điểm cho một dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển.
          Như vậy, việc Thiên Chúa lập giao ước với Áp-ra-ham và long trọng ban lời hứa như một ám chỉ rằng: chính tự nơi ông, một dòng dõi hùng cường sẽ xuất hiện và dòng dõi ấy sẽ là một chuẩn bị để cho Đấng Cứu Thế xuất hiện. (x. St 15, 1-21; 17, 1-14; 22, 16-18).
          c -  Niềm tin của Áp-ra-ham
          Áp-ra-ham tin và với niềm tin đó, công trình cứu độ bắt đầu về phía loài người. Ông tin rằng Thiên Chúa sẽ cho dòng giống ấy đất Ca-na-an. Ông tin rằng sẽ có một dòng giống đông vô số, như sao trên trời, như cát bãi biển. Ông tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho mình một đứa con là khởi đầu cho một gia đình, một dân tộc. Đó không phải là một lời hứa dễ tin, nhưng rút cuộc ông đã tin, đã bỏ tất cả để thực hiện một cuộc hành trình đức tin, hướng về lời hứa ở tương lai.
          Áp-ra-ham yêu I-xa-ác như con ngươi trong mắt mình, bởi vì niềm hy vọng cứu độ của dòng dõi đông đúc đặt ở nơi cậu. Vậy mà khi Thiên Chúa bảo ông mang cậu con trai đi làm của lễ toàn thiêu thì ông vẫn vâng lệnh ra đi đến nơi tế lễ. Nhưng sau khi ông minh chứng niềm tin sâu xa của mình, Thiên Chúa đã trao hoàn lại cậu con trai cho ông. Chính vì điều này mà trong Tân Ước, thánh Phaolô đã giới thiệu Áp-ra-ham là cha của những kẻ tin vào Thiên Chúa (x. Rm 4). Niềm tin đó của Áp-ra-ham không chỉ được tiếp nối nơi con cháu ông, mà vẫn còn tiếp nối nơi những ai đã, đang và sẽ tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa.
3. Các Tổ phụ khác
          a. I-xa-ác
          Thiên Chúa đã giữ lời hứa với ông Áp-ra-ham. Ông đã sinh được người con là I-xa-ác, đứa con của lời hứa. So với cha mình, tuy I-xa-ác được mô tả bằng những nét nhợt nhạt, nhưng việc Thiên Chúa lập lại với ông những lời đã hứa là một điều quan trọng trong lịch sử cứu độ (St 26, 3). Điểm nổi bật nhất trong sự tích về I-xa-ác là việc ông trở thành của lễ hiến tế của cha mình dâng lên Thiên Chúa. Chính việc này đã khiến ông trở thành hình ảnh tuyệt vời về mọi hiến lễ sau này, trong đó phải kể đến hiến lễ của Đức Giê-su. Suy luận của A. Lapple cho chúng ta thấy: “Trong khi Áp-ra-ham xuất hiện như biểu tượng Thiên Chúa Cha, con người I-xa-ác xem ra phải đóng vai hình ảnh Đức Ki-tô” [1]. Các Giáo phụ đã so sánh hiến lễ của I-xa-ác với hiến lễ của Đức Ki-tô như sau: I-xa-ác là người con một của Áp-ra-ham, thì Đức Giê-su là người Con Một của Thiên Chúa; I-xa-ác sẵn sàng chịu chết trên một ngọn núi, thì Đức Giê-su sẵn sàng chịu chết trên núi sọ; với I-xa-ác, Thiên Chúa tha chết cho ông, thì với Đức Ki-tô, Thiên Chúa không tha chết cho Ngài.
           b. Gia-cóp
          Ông I-xa-ác và bà Rê-bê-ca sinh được hai người con trai là Ê-xau và Gia-cóp (St 25, 22). Tuy là con thứ, nhưng ông Gia-cóp lại được Thiên Chúa chọn và còn nhắc lại điều Ngài đã hứa với ông Áp-ra-ham (St 28, 13- 15). Thiên Chúa còn đổi tên cho ông thành Ít-ra-en, cái tên mà kể từ đó đến tận ngày nay, người Do-thái vẫn lấy để gọi quốc gia của mình.
          Việc ông Gia-cóp đã dùng mưu kế giả dạng Ê-xau để chiếm quyền trưởng nam xem ra có vẻ gian xảo, nhưng lại là một ví dụ cho thấy, Thiên Chúa thường vạch những đường thẳng xen kẽ những đường cong, bởi vì chương trình cứu độ sẽ tiếp tục xuyên qua Gia-cóp chứ không phải Ê-xau [1] . Gia-cóp được mô tả như một con người tồi tàn, nhưng từ khi ông trốn về phía Bắc Haran để tránh cơn giận của người anh, thì những vẻ tốt đẹp nơi ông mỗi ngày một gia tăng và đậm nét. Trình thuật sách Sáng thế có kể về việc ông khấn với Thiên Chúa và việc Thiên Chúa đã nhắc lại lời hứa với Áp-ra-ham và I-xa-ác, sau đó ông được đổi thành Ít-ra-en, cho thấy càng ngày ông càng thêm tiến đức. Hai người vợ của Gia-cóp là Ra-khel, Lê-a và hai người tớ gái của các bà đã sinh cho ông 12 người con trai mà chương trình của Thiên Chúa sẽ tiếp tục xuyên qua họ. 12 người con của Gia-cóp gồm: Với bà Lê-a, ông sinh hạ Ru-ven, Si-mê-on, Lê-vi, Giu-đa, Ít-xa-ca và Da-vơ-lun ; với bà Ra-khen, ông sinh hạ Giu-se và Ben-gia-min ; với bà Bin-ha, ông sinh hạ Đan và Nap-ta-li ; với bà Din-pa, ông sinh hạ Gat và A-se.
          c. Giu-se
          Ông Giu-se là người nổi bật nhất trong số các người con của Gia-cóp. Ông được cha mình quí mến hơn nên bị anh em ghen ghét và bán cho người It-ma-en đem sang Ai-cập. Khi bán Giu-se sang Ai-cập, các anh em của ông đã phạm hai tội ác: Cắt đứt tình huynh đệ và lừa dối cha già. Tuy nhiên chính trong biến cố đó, Thiên Chúa đã thực hiện chương trình của Ngài là cứu sống cả gia tộc Ít-ra-en qua khỏi nạn đói dữ dội xảy ra trong thời đó. Câu chuyện này được viết ra cốt để trình bày một chân lý rằng: trong mọi hoàn cảnh, Thiên Chúa vẫn quan phòng, chở che dân tộc mà Ngài đã kết ước với vị tổ phụ là Áp-ra-ham.
          Theo trình thuật Thánh Kinh, Giu-se đã giải được mộng tại đất Ai-cập (x. St 41, 12-13; 25-36), nhưng cũng có lẽ trong thời điểm đó, người Hic-xot đang nắm chính quyền trên toàn cõi Ai-cập, mà người Hic-xot cùng dòng dõi Sê-mit với người Hip-ri, nên ông được làm tới đại thần số một của vua Pha-ra-ô. Nhờ đó khi nạn đói xảy ra, gia đình tổ phụ Áp-ra-ham chạy sang Ai-cập, đã được đón tiếp và sinh sống dễ dàng. Như thế, Thiên Chúa đã biến cái xấu của con người trở thành cái tốt, điều đó nói lên những việc kỳ diệu của Thiên Chúa quan phòng (St 50, 2).
          Ông Giu-se qua đời, hai người con của ông là Ep-ra-im và Ma-na-xê được ông Gia-cóp nhận làm con nuôi. Còn chi tộc Lê-vi được dành riêng để lo việc tế tự. Mười chi tộc còn lại cộng với hai người con của ông Giu-se làm thành mười hai chi tộc Ít-ra-en. Sau này khi tuyển chọn các môn đệ để thiết lập Giáo Hội, Đức Giê-su cũng chọn mười hai người. Như vậy, Giáo Hội đã trở thành Ít-ra-en mới được xây dựng trên mười hai trụ cột là các tông đồ.

BẠN CÓ BIẾT ?
SÁCH XUẤT HÀNH
Sách Xuất Hành bàn tới 2 vấn đề chính: được giải phóng khỏi Ai-cập (chương 1 đến chương 15, 21) và giao ước tại Xi-nai (chương 19-40). Hai đề tài ấy được nối nhau bằng đề tài phụ: Cuộc hành trình trong sa mạc (15, 22 – 18,27).
Sau khi được Thiên Chúa tỏ cho biết tên của Ngài tại núi Xi-nai, ông Mô-sê đã dẫn dân Do-thái vừa được giải phóng tới đây. Thiên Chúa ngự đến đầy oai linh, ký kết giao ước với dân và ban lề luật Ngài cho họ. Vừa ký giao ước xong, dân chúng đã vi phạm ngay: họ thờ lạy bò vàng. Thế nhưng Thiên Chúa đã tha thứ và lặp lại những giao ước.
SÁCH LÊ-VI
Sách Lê-vi xen vào làm gián đoạn câu chuyện đang kể. Sách này quy định các nghi thức phụng vụ: các lễ tế, việc phong chức tư tế, những luật về sự thanh sạch và uế tạp…
SÁCH DÂN SỐ
Sách này thuật tiếp cuộc hành trình trong sa mạc: sau giao ước Xi-nai, người ta kiểm tra dân số để chuẩn bị lên đường. Sau khi cử hành lễ Vượt Qua lần thứ 2, họ rời núi Thánh và đi từng chặng tới Ca-đét, họ cố tiến vào đất Ca-na-an bằng phía nam, nhưng thất bại.
Sau ít lâu, họ chuyển hướng đi về vùng Mô-áp, đối diện với Giê-ri-khô. Dân Ma-đi-an thua. Đất họ là vùng bên kia sông Gio-đan, được chia cho các chi tộc Gát, Ru-ben và một nửa chi tộc Mơ-na-sê.
SÁCH ĐỆ NHỊ LUẬT (Thứ Luật)
Đây là bản luật thứ hai, gồm cả luật dân sự và luật tôn giáo. Sách này lấy lại một phần các lề luật đã được ban trong sa mạc. Sách cũng ghi lại 4 bài diễn từ lớn của Mô-sê, sứ vụ của Giô-suê, bài ca, di chúc và cái chết của Mô-sê.


MÔ-SÊ VÀ BIẾN CỐ VƯỢT QUA CỦA NGƯỜI DO-THÁI

1. Ơn gọi của Mô-sê
          a. Được chọn từ nhỏ
          Tại Ai-cập, dòng dõi Ít-ra-en dần dà sinh sôi nảy nở ra nhiều. Các vua Ai-cập sợ họ trở nên quá mạnh, có thể gây hiểm hoạ, nên bắt đầu đàn áp và bắt họ làm nô lệ phục dịch trong các công trình xây cất của nhà vua như: xây cất kim tự tháp, xây các kho dự trữ lương thực.
          Đang khi dân phải chịu khổ cực như vậy, Thiên Chúa chuẩn bị cho một người đến cứu họ: đó là Mô-sê. Theo trình thuật của sách Xuất hành, Mô-sê là người gốc Ít-ra-en, thuở mới sinh bị bỏ trôi sông và được công chúa Ai-cập đón về nuôi. Ông đã được giáo dục trong triều đình Ai-cập và nhờ đó mà được chuẩn bị đầy đủ những kỹ năng của một nhà lãnh đạo và lập pháp để sau này giúp dân Ít-ra-en. Mô-sê vẫn sống bình lặng trong triều đình Ai-cập, nhưng ngày kia, một biến cố đã thay đổi hẳn đời ông. Đó là vào năm ông được 40 tuổi, Mô-sê không còn chịu nổi cảnh đồng bào ông bị áp bức, ông đã ra tay sát hại một người Ai-cập đang hành hạ người Do-thái. Vừa ra tay xong, ông biết ngay mình đã làm sai. Ông đã phải chạy thục mạng mới thoát được bàn tay săn lùng của những thám tử hoàng gia. Khi hành động như vậy, Mô-sê đã không làm theo ý Chúa, mà chỉ theo suy nghĩ của con người. Ông chưa hiểu được ý định của Thiên Chúa muốn dùng ông để giải cứu dân Ngài sau này. Nên Thiên Chúa đã tiếp tục uốn nắn ông trong một thời gian để ông trở thành một người hoàn toàn vâng phục Ngài và thực hiện công trình của Ngài chứ không phải chương trình của cá nhân ông.
          Khi Mô-sê chạy trốn vào sa mạc và sống tại đó, ông đã học biết cuộc sống lam lũ, nghèo nàn và tự do, đó cũng là cuộc sống của Áp-ra-ham – tổ phụ ông. Mô-sê sống giữa những người Ma-đi-an và đã nhận được nơi bố vợ ông (ông Rơ-u-ên) các truyền thống về tổ phụ Áp-ra-ham và đức tin của ông vào Thiên Chúa [1] và nhất là tại đây, ông đã gặp gỡ với Thiên Chúa. Chính trong lúc gặp được Thiên Chúa của cha ông mình, Mô-sê đã nhận ra sứ mạng của mình đối với dân Ít-ra-en.
          b. Sứ mạng của Mô-sê
          Thiên Chúa muốn giải thoát con cái Ít-ra-en thoát khỏi cảnh nô lệ của người Ai-cập, nên Ngài định chọn Mô-sê để làm việc đó. Ông ngần ngại vì sợ trách nhiệm quá nặng nề, nhưng Thiên Chúa hứa: Ta sẽ ở với ngươi. Phản ứng của Mô-sê là phản ứng tự nhiên của những người được Thiên Chúa chọn để giao phó một nhiệm vụ đặc biệt, như thủ lãnh Ghê-đê-ôn, tiên tri Giê-rê-mi-a, Đức Ma-ri-a... Nhưng lời chấn an mạnh nhất của Thiên Chúa bao giờ cũng là: Ta sẽ ở với ngươi. Kể từ đó, tất cả cuộc đời ông đều hướng về cuộc giải thoát dân tộc mình. Ông đã bị Thiên Chúa chiếm đoạt và sai phái đi; ông đã trở lại Ai-cập và thương lượng với vua Pha-ra-ô để dân Ít-ra-en được giải thoát. Quyền năng Thiên Chúa (được biểu lộ qua Mô-sê) đã thúc bách Pha-ra-ô sớm thực hiện cuộc phóng thích dân Do-thái. Chính nhờ sự chu toàn sứ mạng với niềm tín thác vào quyền lực của Thiên Chúa mà càng ngày ông càng tiến sâu vào mầu nhiệm của Ngài, Đấng thường đến với ông và với dân tộc ông trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.  
2.  Biến cố Vượt Qua
          a. Mười tai ương
          Nước biến thành máu, ếch nhái, muỗi, ruồi nhặng, ôn dịch, ung nhọt, mưa đá, châu chấu, cảnh tối tăm và cái chết của các con đầu lòng Ai-cập. Ý nghĩa thực sự của mười tai ương ở đây không phải là lịch sử mà là tôn giáo:
          1- Thiên Chúa can thiệp để cứu dân Do-thái bị áp bức ra khỏi ách nô lệ của người Ai-cập.
          2- Sự xung đột hay phân tranh giữa hai thần: Thiên Chúa và Pha-ra-ô. Pha-ra-ô cho mình là chúa của đất nước Ai-cập và chủ của dân nô lệ Ít-ra-en, cho nên ông nắm quyền sinh tử của họ trong tay. Tuy nhiên, với mười tai ương do Thiên Chúa gửi đến (chín tai ương liên quan đến đời sống của người Ai-cập và tai ương thứ mười liên quan đến ngôi vua và dòng dõi Ai-cập), Thiên Chúa đã nói cho vua Pha-ra-ô, toàn thể dân Ai-cập và dân Ít-ra-en rằng, Ngài mới thật là Thiên Chúa duy nhất. Ngài thật là Chủ tể của cả trời đất vũ trụ chứ không phải là Pha-ra-ô hay bất cứ thần nào khác.
          b.  Bữa tiệc Vượt Qua
          Theo nguồn gốc, lễ này là sự phối hợp hai nghi lễ cổ xưa lại làm một, bao gồm: Lễ sát chiên: trong đó các mục tử giết một con chiên mới sinh vào dịp đầu xuân, rồi họ dùng máu của nó để xua đuổi các tà thần khi họ di chuyển bộ tộc mình từ đồng cỏ này sang đồng cỏ khác. Lễ làng nông: trong đó mọi người trong làng vứt bỏ đi hết tất cả các men và hạt giống cũ để ăn mừng mùa gặt mới với hạt giống mới vào dịp đầu xuân. Chính vì thế mà đối với người Do-thái, lễ Vượt Qua chính là lễ đầu Xuân cũng tương tự như tết Nguyên đán của người Việt vậy.
          Với biến cố bữa ăn chiên vượt qua (Xh 12), dân Ít-ra-en theo lệnh Thiên Chúa truyền đã làm thịt một con chiên, lấy máu bôi lên cửa, rồi hối hả ăn để ra đi bất cứ lúc nào. Đêm đó Thiên Thần Chúa rảo qua các vùng Ai-cập để sát hại tất cả các con đầu lòng, kể cả súc vật của người Ai-cập. Nhưng Thiên Chúa đã “vượt qua” những nhà có máu bôi trên cửa, vì thế, dân Ít-ra-en được bình yên vô sự.
          Như vậy, lễ Vượt Qua của người Do-thái là nhắc lại việc Thiên Chúa, trong đêm xuất hành đã đi ngang hay vượt qua các nhà của người Do-thái mà không giết các con đầu lòng, vì có dấu máu chiên bôi trên khung cửa nhà họ. Ngược lại, chính Thiên Chúa đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng của vua Pha-ra-ô đến con đầu lòng của mọi người Ai-cập cũng như của loài vật. Cũng trong đêm đó, chính Thiên Chúa đã hạ bệ tất cả các thần của người Ai-cập.
          Vì vậy, lễ Vượt qua đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Ít-ra-en, do đó hàng năm người Do-thái vẫn cử hành Bữa Tiệc Vượt Qua. Qua biến cố này, dân Do-thái càng ý thức về tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Ngài đã dủ lòng thương khi họ gặp cảnh khốn cùng và dùng cánh tay hùng mạnh của Ngài để dẫn dân ra khỏi Ai-cập.
          c. Qua biển Đỏ
          Theo trình thuật về Biến cố “vượt qua” biển Đỏ (x. Xh 14), nước rẽ ra cho dân Do-thái băng qua, còn toàn bộ binh lính xe cộ của người Ai-cập thì bị nước biển nhấn chìm. Đây là một phép lạ hay chỉ là một hiện tượng tự nhiên đã từng xảy ra tại vùng này? Theo một số học giả Thánh Kinh, vùng này là một vùng đầm lầy (đó là hồ Timsah, phía bắc của kênh đào Suez ngày nay). Gió đông bắc thường thổi vào lúc nước ròng làm cho vùng này trở thành nơi khô cạn trong vài giờ khoảng gần sáng, cho nên người ta có thể đi ngang qua được. Tuy nhiên khi sáng đến, ngọn gió đổi chiều vì cơn gió nồm hay gió nam thổi đến, nước lớn ào ào quay trở lại với mực nước bình thường của nó. Ở đây, người Do-thái xem biến cố đi qua Biển Đỏ như là một phép lạ từ bàn tay uy quyền của Thiên Chúa. Nước đem lại sự sống cho dân Do-thái, nhưng đồng thời lại thanh tẩy những gì là tội lỗi. Chính Thiên Chúa là vị thần duy nhất đã cứu dân Ít-ra-en ra khỏi ách nô lệ của người Ai-cập. Chính Ngài dìu dắt họ qua các hiểm nguy của hỗn loạn và diệt vong trên biển dưới bàn tay của tử thần. Rồi chính Ngài làm cho họ nên một dân tộc riêng biệt và cho họ một cuộc sống mới trong tự do và hạnh phúc. Tất cả những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm đây hoàn toàn là một món quà nhưng không của Ngài cho họ.

BẠN CÓ BIẾT ?
SÁCH GIÔ-SUÊ
Sách này trình bày việc chiếm xứ Pa-let-tin, dưới sự lãnh đạo của ông Giô-suê, người kế vị Mô-sê, và việc chia lãnh thổ cho 12 chi tộc Ít-ra-en.
SÁCH THỦ LÃNH (THẨM PHÁN)
Sách Thủ Lãnh kể về 200 năm đầu vùng đất mới chiếm. Dân Ít-ra-en còn sống theo quy chế bộ lạc, chưa lập thành quốc gia. Họ bị quyến rũ tôn thờ các ngẫu tượng và bị các dân địa phương hoặc láng giềng áp bức. Thiên Chúa đã cho nhiều người đứng lên bênh vực họ, cứu họ khỏi kẻ thù: Ốt-ni-en, Ê-hút, Sam-ga, Đê-bô-ra và Ba-rắc, Ghê-đê-ôn và A-bi-mê-lết, Tô-la, Giai-a, Giép-tê, Íp-san, Ay-lon, Áp-đôn, Sam-son. Những người này được gọi là thẩm phán, không phải vì họ lo xử kiện, nhưng vì họ đã thi hành các phán quyết của Thiên Chúa, tức là những lần Thiên Chúa can thiệp để bênh vực dân Ngài.
SÁCH RÚT
Sách này kể chuyện về bà Rút. Bà là một phụ nữ gốc Mô-áp, tức là một người ngoại bang, đã lấy chồng là một người Ít-ra-en, nhưng ông  này chết sớm. Chung thành với người chồng đã khuất, bà Rút quyết định theo mẹ chồng về Pa-let-tin. Sau đó bà lập gia đình với ông Bô-a và sinh ra Ô-vét là ông nội vua Đa-vít. Tuy là một phụ nữ ngoại bang, nhưng bà Rút đã được chọn vào hàng tổ tiên của Đấng Cứu Thế.
SÁCH SA-MU-EN 1 VÀ 2
Hai sách Sa-mu-en lúc đầu chỉ là một, về sau người ta mới chia ra cho tiện. Sách này tường thuật lại giai đoạn đầu của vương quốc Ít-ra-en, về Sa-mu-en là vị thẩm phán cuối cùng và là ngôn sứ, về vị vua thứ nhất là Sa-un, và về những diễn tiến đưa Đa-vít lên ngôi vua.
SÁCH SỬ BIÊN NIÊN (KÝ SỰ 1 VÀ 2)
Sách này ghi chép sự việc theo thời gian (nên được gọi là Ký Sự hoặc là sử chép theo từng năm). Các tác giả hai sách này muốn chứng tỏ rằng khi dân Ít-ra-en trung thành với với giao ước thì Thiên Chúa bênh vực họ, và ngài đánh phạt họ khi họ lìa bỏ giao ước. Được biên soạn vào thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, sau sách Sa-mu-en và sách Các Vua, nên các sách Sử Biên Niên bổ túc nhiều cho các sách ấy.
SÁCH ÉT-RA VÀ SÁCH NƠ-KHE-MI-A
Hai sách này làm thành một khối, trình bày phần tiêp theo hai sách Sử Biên Niên. Hai sách này ghi lại bút tích của ông Ét-ra và ông Nơ-khe-mi-a cùng với những văn kiện của nhà nước đế quốc thời ấy, để nói về cuộc hồi hương vào năm -538 của những người lưu đày. Họ trở về xây dựng lại đền thờ và khôi phục lại việc thờ phượng tại Giê-ru-sa-lem (Ét-ra) đồng thời tái thiết lại các tường luỹ của thành thánh (Nơ-khe-mi-a).
SÁCH TÔ-BI-A
Sách Tô-bi-a là một chuyện bình dân, thấm nhuần tư tưởng đạo đức Do Thái giáo. Sách kể lại những chuyện không may của ông Tô-bít và con ông là Tô-bi-a trong cảnh sống lưu đầy của người Do Thái giữa đế quốc Ba-tư rộng lớn. Câu chuyện thật tươi mát, nêu bật giá trị của lý tưởng về hôn nhân, về gia đình, của các bổn phận đạo đức như cầu nguyện, bố thí, ăn chay và bổn phận đối với người chết. Mỗi trang sách đều sáng lên lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Cuối cùng, người công chính đã được Thiên Chúa ban thưởng.


GIAO ƯỚC XI-NAI VÀ HÀNH TRÌNH TIẾN VÀO ĐẤT HỨA

1- Giao ước Xi-nai
          a. Nội dung
          Trên hành trình tiến về đất hứa, dân Ít-ra-en đến núi Xi-nai. Tại đây, Thiên Chúa đã gọi ông Mô-sê lên núi và ban cho ông Thập Điều Giao Ước[1] (Xh 20,1-17) mà chúng ta quen gọi là Mười điều răn. Nội dung chính yếu của giao ước được ghi lại trong Xh 19- 24, bao gồm:
          1- Lời tựa và mở đầu: Thiên Chúa tuyên bố lý do của Giao ước. Đó là việc Ngài đã đem Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập đến núi Xi-nai (Xh 19, 3-6; 20, 2).
          2 -Thập điều và các bộ luật giao ước, qui định trách nhiệm và bổn phận của Ít-ra-en đối với Thiên Chúa (qua việc phụng thờ) và đối với tha nhân (qua bác ái công bình) (x. Xh 20, 3-17; 20, 22-23).
          3-Bảo tồn và lưu trữ: Thập điều giao ước được khắc trên hai bia đá và được đặt trong khám gọi là Hòm bia giao ước.
          4-Danh sách các chứng tá thần linh, chúc lành và chúc dữ: không có trong giao ước Xi-nai. Tuy nhiên, sự hiện diện của Thiên Chúa được thể hiện qua các dấu chỉ như khói, lửa, sấm sét, tiếng tù và cùng mây đen (19, 16-19; 20, 18-20).
          Như vậy theo Giao ước, Thiên Chúa trở nên Cha của dân; ngược lại, họ trở nên những người con của Ngài. Để bảo chứng cho Giao ước này, ông Mô-sê đã giết bò mà tế lễ Thiên Chúa. Ông lấy phân nửa máu rẩy trên bàn thờ đại diện cho Thiên Chúa, còn nửa kia ông rẩy trên dân mà nói: “Đây là máu của Giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với anh em” (Xh 24, 8). Máu là biểu tượng cho sự sống. Khi rẩy máu trên bàn thờ và trên dân, thì có nghĩa là Thiên Chúa và dân Ngài cùng liên hệ sự sống với nhau. Nghi thức được kết thúc bằng bữa ăn hiệp thông trên núi thánh (x. Xh 24, 11).
          b. Ý nghĩa
          Thập Điều Giao ước (Xh 20,1-17) được ban trong bối cảnh dân Do-thái khi đó họ chỉ là đám dân ô hợp. Ô hợp, vì họ chưa có đường lối lãnh đạo và mục đích cụ thể. Ô hợp, vì cùng đi với họ có những người không phải là người Do-thái. Vì thế, họ ô hợp cả về tôn giáo.
          Chính Thập Điều Giao Ước làm cho họ trở nên một khối thống nhất, thống nhất cả về tôn giáo. Giờ đây, Thập Điều Giao Ước chính là pháp luật của họ. Thiên Chúa chính là nhà lập pháp của dân Do-thái. Thập Điều Giao Ước bao gồm những điều khoản mà Thiên Chúa đã ký với dân, làm cho họ trở thành một dân tộc. Giao ước đó chính là một cam kết tình yêu: Thiên Chúa nhận Ít-ra-en làm con của Ngài. Hiểu được như thế, ta dễ dàng nhận ra Thập Điều Giao Ước không phải là gánh nặng Thiên Chúa chất lên vai dân, mà chính là con đường, là điều kiện để con người đạt được hạnh phúc, được bảo tồn sự vô giá của nhân phẩm vì được làm con Thiên Chúa. Người Ki-tô hữu ngày nay hiểu được ý nghĩa, xuất xứ của Thập Điều Giao Ước sẽ không cảm thấy nặng nề khi thi hành các điều Giao Ước.
2. Hành trình tiến vào đất hứa
          Sau khi dân ở núi Xi-nai chừng một năm, Mô-sê lại đưa dân lên đường về Ca-na-an, đất mà Gia-vê đã hứa cho tổ phụ họ. Cuộc hành trình từ Ai Cập về đất Ca-na-an đáng lẽ chỉ 40 ngày, nhưng lại kéo dài gần 40 năm, nhằm thanh luyện dân. Việc xác định lộ trình của cuộc Xuất hành và vị trí các giai đoạn rất là khó khăn. Mặc dù trong các bản văn của Thánh Kinh, một số tên cá thể cho chúng ta thấy lộ trình qua phía Bắc, nghĩa là qua xứ người Phi-li-tinh. Đó là con đường thông thường, song song với bờ biển, ngang qua Si-lê (ngày nay là El - Kantanra), rải rác có giếng nước và được canh phòng. Nhóm chạy trốn chắc chắn là không đi con đường đó để tránh khỏi đụng độ với người Phi-li-tinh. Vì vậy, hành trình của họ phải đi là theo phía Nam. Hành trình tiến vào đất hứa của dân Do-thái được chia làm hai chặng sau:
          a. Từ Xi-nai đến Ca-đê
          Thoát khỏi sự khống chế của Pha-ra-ô, dân Do-thái thấy mình được tự do, nhưng lại rơi vào một lo âu không kém khi trước mắt là cả một cao nguyên Xi-nai khô cằn, biết tìm đâu ra cái ăn để sinh sống. Chính những vấn đề khó khăn của cuộc sống thường ngày đã buộc họ phải qui tụ từ cảnh lộn xộn thành một dân tộc. Họ tập trung cùng đi với nhau, cùng tìm chỗ có nước, cùng dựng lều lán, cùng chấp nhận nếp sống gian khổ, cùng giúp nhau tự vệ chống lại các đám du mục đó đây đi càn quét ức hiếp những người chạy trốn. Tuy nhiên, không vì thế mà không xảy ra những cãi vã gây chia rẽ nội bộ. Lúc đó, Mô-sê phải tìm cách bảo toàn thống nhất, lướt thắng những vụ chống đối quyền lãnh tụ của ông. Vì vậy, cần tổ chức cho tập thể xử lý các sự việc chung, nhất là khi có kiện cáo. Luật lệ phải từ từ tạo cơ sở, tổ chức việc quản lý và cắt đặt những người có trách nhiệm về các mặt sinh hoạt. Từ kinh nghiệm sống, Mô-sê đặt nền tảng cho bộ luật dựa vào niềm tin ở Đấng đã giải phóng dân tộc của Ngài. Thập Điều Giao Ước chính là hạt nhân đầu tiên của bộ luật này.
          Kinh nghiệm hình thành một dân tộc có quản lý như thế cũng là một chuỗi kinh nghiệm tôn giáo. Dân ngày càng thống nhất chặt chẽ với nhau thì càng tăng cường niềm tin sâu sắc vào Gia-vê. Quang cảnh hùng vĩ của Xi-nai chắc chắn đã góp phần cho kinh nghiệm tôn giáo có tính chất lạ lùng trọng đại của dân tộc Do-thái.
          Từ núi Xi-nai, dân đi thẳng lên phía bắc theo lối gần nhất về xứ Ca-na-an. Đến Ca-đê, Theo lệnh truyền của Thiên Chúa, Mô-sê cho người vào do thám xứ đó: “Ngươi hãy sai người đi do thám đất Ca-na-an, đất mà Ta sẽ ban cho con cái Ít-ra-en. Các ngươi sẽ sai đi mỗi chi tộc một người và tất cả phải là kỳ mục trong dân” (Ds 13, 2). Sau 40 ngày họ trở về đem theo hoa trái địa phương và nói rằng đất đó rất phì nhiêu, nhưng họ cũng cho biết là dân đất ấy rất mạnh. Nghe vậy, con cái Ít-ra-en lại nổi dậy kêu trách Mô-sê. Cũng chính vì tội này, Thiên Chúa kết án tất cả những người từ hai mươi tuổi trở lên sẽ phải sống và bỏ xác trong sa mạc, chỉ con cái họ mới được vào đất hứa. Vì thế, dân Ít-ra-en phải sống gần bốn mươi năm ở sa mạc Ca-đê, phía nam xứ Ca-na-an.
          b. Từ Ca-đê đến bờ sông Gio-đan
          Sau thời gian sống ở Ca-đê, Mô-sê lại đưa dân về đất hứa, nhưng không phải đi vào từ phía nam mà đi từ phía đông. Họ phải đi vòng xuống phía đông nam để tránh dân Ê-đôm, rồi từ đó đi ngược lên phía bắc (x. Ds 20).
          Ít-ra-en đánh chiếm được một vùng phía đông sông Gio-đan, rồi xuống đóng trại ở đồng bằng Mô-áp, tức là thung lũng ở phía đông sông Gio-đan, phía bắc Biển Chết (x. Ds 21).  Thực ra, việc tấn công và xâm chiếm đất Ca-na-an của dân tộc Ít-ra-en là cả một quá trình lâu dài. “Theo phân tích lịch sử cho thấy, đó là cả một quá trình phức tạp, không phải tất cả cùng vào qua một hướng và không phải bởi một lãnh tụ duy nhất. Một số bộ lạc có lẽ đã xâm nhập vào Ca-na-an từ mạn nam. Vài bộ lạc khác đi vòng để tiến vào từ mạn đông; ít toán khác dừng lại định cư bên kia sông Gio-đan; còn một số toán khác thì theo Giô-su-ê – người kế vị Mô-sê đã vượt sông Gio-đan và xâm nhập vào miền trung bộ Ca-na-an.”. Mặt khác, có một số bộ tộc đã đến định cư thành dân địa phương từ trước mà không di cư xuống Ai-cập, vì phần lớn dân cư Pa-lét-tin đều cùng gốc A-mô-ri như người Ít-ra-en. Có thể họ cũng ủng hộ lực lượng xâm nhập. Theo suy luận của W. Harrington thì: “… một phần đáng kể xứ này đã chẳng cần phải chiếm, đặc biệt ở miền trung. Vì vậy, nghi thức ở Si-khem (Gs 24) rất có thể là lễ sáp nhập các thành phần dân khác vào trong cơ cấu các chi tộc Ít-ra-en”
          Bên cạnh đó, các dữ kiện khảo cổ học nhìn nhận cách chung chung trình thuật Thánh Kinh, tuy rằng cũng nêu lên vài vấn đề nghiêm trọng: “Trong khoảng thời gian dài, người ta đã tin rằng những đào bới tại Giê-ri-khô đã mang lại nhiều bằng chứng giá trị, nhưng đến nay lại không còn phù hợp nữa. Mặt khác, người ta biết rằng, thành Hai được coi là do Giô-su-ê chiếm (xem Gs 8, 1-23) thật ra bị phá huỷ năm 2200 TCN và nơi ấy không có dân cư, vắng tanh cho mãi tới thế kỷ XII. Có thể chuyện ghi trong Gs 8 thật ra lại nhằm việc chiếm Bê-then là nơi cách đó 1800m, nhất là các cuộc đào xới lại cho thấy nơi ấy đã bị phá huỷ vào nửa sau thế kỷ XIII. Ngược lại, các trình thuật liên hệ đến việc chiếm Debir (Gs 10, 38-39); Lakish (10, 31-32); Eglon (10 34-35) và Hasor (10, 11) phù hợp với các sự kiện chứng tỏ các thành đó bị phá huỷ vào cuối thế kỷ XII”. Như vậy, các chứng tích do khảo cổ học cung cấp thật là đáng kể, nhưng những chứng tích đó không xác nhận hết mọi chi tiết của bản văn Thánh Kinh, cho nên không loại trừ sự kiện là việc chiếm đất có thể xảy ra khá phức tạp. Tuy nhiên, dù việc dân Ít-ra-en chiếm đất có phức tạp, dù cho trong trình thuật sách Giô-su-ê có giản lược hoá thực tại thì vẫn có một điều chắc chắn là: “…một cuộc xâm chiếm bằng võ lực đã xảy ra vào cuối thế kỷ XIII”
          Trong thực tế, đã có những việc xâm nhập êm thắm khi họ đi kiếm cỏ cho súc vật. Một vài chỗ, họ đã liên hiệp được với các bộ lạc Ca-na-an địa phương; nhưng rồi sau đó, những đám mới đến đã đụng độ với với các thành trì đã có sẵn. Khi thắng trận, dân Chúa tin rằng đó là chiến thắng của Gia-vê; nhưng cũng có lúc họ bại trận. Cũng theo các tác giả của cuốn Đi tìm Lời Chúa trong Thánh Kinh thì “…thừa lúc Giô-su-ê kéo quân xâm nhập Ca-na-an, các bộ lạc miền Bắc đã nổi lên chống lại đám lãnh chúa Ca-na-an ở tại địa phương ấy”
          Trở lại với trình thuật của sách Dân số, những chiến thắng của dân tộc Ít-ra-en tại những nơi đó đã giúp họ một lần nữa nhận ra rằng: Thiên Chúa là Đấng cứu độ của họ. Chính ở đây bắt đầu câu chuyện về ông Balaam - một phù thuỷ ở phương xa do người Mô-áp mời đến để nguyền rủa Ít-ra-en, được thêu dệt dưới hình thức một truyền thuyết. Khi dân của Thiên Chúa chọn đi trên con đường của tự do, họ phải đương đầu với nhiều nguy hiểm: kẻ thù và những sự hèn nhát của riêng họ trước những hy sinh cần thiết. Hơn nữa, có một hiểm nguy lớn hơn đang đe doạ mà họ không biết: đó là thầy phù thuỷ Balaam. Nhưng Thiên Chúa đã bảo vệ họ không những thoát khỏi kẻ thù nhân linh hữu hình, nhưng còn bảo vệ khỏi kẻ thù vô hình; đồng thời còn dùng chính miệng lưỡi của kẻ thù chúc phúc cho dân Ít-ra-en (xem Ds 23, 20-23; 24, 5-6). Ba-la-am lại còn tiên báo về vương triều Đa-vít:
          “Tôi trông thấy nó, nhưng không phải cho bây giờ, tôi ngó thấy nó, nhưng không phải gần đây; một tinh tú mọc lên từ Gia-cóp, một vương trượng dấy lên từ Ít-ra-en” (Ds 24, 17).
          Đến đây, nhiệm vụ của Mô-sê sắp chấm dứt. Ông đã dẫn dân từ Ai-cập đến ngưỡng cửa Đất Hứa. Giờ đây ông chia cho một số thị tộc phần đất đã chiếm được ở phía đông sông Gio-đan (xem Ds 32; Đnl 3, 12-17), ông qui định lại luật pháp cho dân và truyền lại cho Giô-su-ê quyền lãnh đạo dân (Đnl 31).
          Từ đồng bằng Mô-áp, Mô-sê lên đỉnh núi Nê-bô ở phía đông bắc Biển Chết và từ đó nhìn sang đất hứa, nơi ông đã ngưỡng vọng từ lâu, nhưng lại không được vào. Rồi ông từ trần. Kể từ đó, dân Ít-ra-en không bao giờ có một vị ngôn sứ như Mô-sê, người diện kiến Gia-vê (x. Đnl 34).

BẠN CÓ BIẾT ?
SÁCH GIU-ĐI-THA
Sách kể lại cuộc giải cứu thành Bê-tu-li bị bao vây dưới thời vua Na-bu-cô-đô-nô-sô. Là một quả phụ trẻ đẹp, bà Giu-đi-tha đã một thân một mình tiến vào doanh trại của quân thù. Tướng Hô-lô-phe-nơ mê sắc đẹp của bà, đem bà vào lều và bị bà cắt đầu. Đây là một tiểu thuyết lịch sử ca ngợi lòng tin vào Thiên Chúa và lòng yêu nước.
SÁCH ÉT-TE
Sách kể lại chuyện bà Ét-te, một người phụ nữ Do Thái trẻ đẹp trong thời lưu đày được chọn làm hoàng hậu nước Ba Tư, và nhờ đó mà phá vỡ được âm mưu tiêu giệt dân Do Thái.
SÁCH MA-CA-BÊ 1 VÀ 2
Hai sách Ma-ca-bê không tiếp nối nhau nhưng cũng thuật lại những hồi quan trọng lịch sử dân Ít-ra-en từ nửa đầu thế kỷ thứ 2 trước công nguyên. Dưới quyền các vua Ba Tư và Hi-lạp, xứ Pa-lét-tin vẫn được hưởng tự do tôn giáo cho đến năm -167. Vào năm này, vị vua thuộc triều Sơ-lu-cô là An-ti-ô-cô IV Ê-pi-pha-nô quyết định dùng vũ lực bắt ép người Do Thái phải thờ phụng và tin tưởng như người Hy Lạp. Ông đã đặt tượng thần Giu-pi-te cả trong đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nhiều người Do Thái thà chết chứ không bỏ đạo.
Tư tế Ma-ta-thi-a đã cùng với 5 người con trốn vào bưng. Một trong 5 người ấy là Giu-đa, biệt danh là Ma-ca-bê nổi bật với những cú đấm ngàn cân. Cuối cùng các vua triều Sơ-lu-cô phải bó tay trước đám du kích và quốc gia Do Thái được tái lập.
SÁCH GIÓP
Tác giả sách Gióp vẽ lên một nhân vật tiêu biểu để giúp ta suy nghĩ về sự đau khổ. Ông Gióp là một người tốt lành, phúc hậu. Bỗng dưng trong phút chốc ông mất hết của cải, con cái và sức khoẻ. Bạn hữu nhắc nhở ông rằng ông có phạm tội gì đó mới bị phạt như thế. Nhưng cuối cùng, ông được minh oan và được an ủi: ông được bù đắp cả về sức khoẻ và tài sản, gia đình và danh dự.
SÁCH THÁNH VỊNH
Đây là sưu tập các bài thơ dùng để hát trong việc thờ phượng của người Do Thái. Vua Đa-vít được coi là ông tổ của ngành Thánh Vịnh, bởi đó, nhiều Thánh Vịnh được quy cho ông, nhưng rất khó xác định Thánh Vịnh nào do ông làm ra. Rất nhiều bài được viết trong thời lưu đày và sau lưu đày.
Hội Thánh Công Giáo đã dùng các Thánh Vịnh làm lời cầu nguyện chính thức của mình, không sửa đổi, bởi vì những lời ấy diễn tả thái độ mà mọi người phải có trước mặt Thiên Chúa. Nhờ Đức Kitô, các Thánh Vịnh còn mang thêm ý nghĩa mới mẻ và phong phú.
SÁCH CHÂM NGÔN
Sách này thu góp nhiều châm ngôn nhằm dạy lẽ khôn ngoan, nghĩa là nghệ thuật ăn ở sao cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh ở đời.
SÁCH GIẢNG VIÊN
Sách Giảng Viên còn gọi là sách Qohêlet (Cô-hê-lét). Tiếng này có nghĩa là “Người lên tiếng trong cộng đoàn”. Sách xuất hiện vào thế kỷ 5 trước công nguyên. Nó trình bày một suy tư khác thường về ý nghĩa đời người: tất cả đều monh manh hão huyền.
SÁCH DIỄM CA (HAY DIỆU CA)
Tựa đề sách có nghĩa là ca khúc đẹp nhất. Nó là một sưu tập thơ tình yêu, ca ngợi phẩm giá tình yêu nhân loại, đã được dùng là hình ảnh quan hệ yêu thương mà nhờ giao ước, Thiên Chúa đã thiết lập giữa Ngài với dân Ngài, giữa Ngài và người tín hữu, giữa Đức Kitô và Hội Thánh.


VIỆC THÀNH LẬP VƯƠNG QUỐC ÍT-RA-EN VÀ VUA ĐA-VÍT

1. Thành lập vương quốc Ít-ra-en
          a. Từ bộ lạc đến vương quốc
          Miền đất Thiên Chúa hứa ban cho dân Ít-ra-en nằm hai bên bờ sông Gio-đan. Cho đến cuối đời, Mô-sê mới chỉ chiếm được một phần đất phía đông (Ds 13). 40 năm trôi qua kể từ lễ Vượt qua đầu tiên, hầu hết những người Ít-ra-en lớn tuổi ra đi từ Ai-cập đều đã bỏ mình trong Sa mạc. Ông Mô-sê cũng cùng chung một số phận ấy với dân chúng. Sau khi được Thiên Chúa đưa lên một ngọn núi cao (núi Nê-bô) để nhìn thấy miền đất Ngài sắp ban cho dân, ông đã qua đời trong Sa mạc (x. Đnl 34). Sau đó, ông Giô-su-ê - một người trợ tá của ông Mô-sê được Thiên Chúa trao trách nhiệm đưa dân Ít-ra-en vào đất hứa.
          Sau khi vào đất hứa, dân Ít-ra-en chưa được tổ chức thành một nước. Suốt 200 năm, họ sống không có vua quan, chỉ một mình Thiên Chúa đích thân hướng dẫn họ. Những khi cần, Thiên Chúa đã chọn một thủ lãnh từ giữa các chi tộc, để giúp họ chống ngoại xâm và để giúp họ sống trung thành với Giao ước. Những thủ lãnh ấy thực hiện các phán quyết của Thiên Chúa nên được gọi là các thẩm phán hay các phán quan. Nổi bật nhất trong số đó là các ông Ghê-đê-ôn, Sam-son, Giép-tê… và vị thẩm phán cuối cùng là ngôn sứ Sa-mu-en, một ngôn sứ nổi bật về thái độ lắng nghe tiếng Chúa [1].
          Vào cuối thời đại các thủ lãnh, dân Ít-ra-en thấy cần phải có sự thống nhất về mặt chính trị thì mới đương đầu nổi với ngoại bang, vì thế họ xin Sa-mu-en, vị thủ lãnh cuối cùng lập cho họ một vua: đó là Sa-un. Nền quân chủ bắt đầu từ đó và sẽ kéo dài trong vòng 450 năm, cho đến khi dân bị đem đi lưu đày bên Ba-bi-lon.
          b. Thời các thẩm phán
          Sau khi chiếm xong Ca-na-an, mười hai chi tộc sống trong mười hai lãnh thổ của mình, nhưng cùng làm thành một quốc gia, một quốc gia không vua, chỉ hợp nhất bằng tôn giáo mà tượng trưng là khám Giao ước, đặt tại Si-lô, thuộc chi tộc Ép-ra-im (Gs 18, 1).
          Trong giai đoạn này, người Do-thái và người Ca-na-an vẫn sống lẫn lộn với nhau, các chi tộc độc lập về chính trị, chỉ liên minh về mặt tôn giáo. Khi có giặc ngoại xâm, các chi tộc liên minh lại, bầu ra một vị thủ lãnh để chống giặc. Thời này có hai mối nguy lớn: Về tôn giáo: vì có dân ngoại sống hỗn hợp nên nhiều người Do-thái thờ thần ngoại. Về chính trị: còn yếu nên thường bị các dân tộc xung quanh đánh phá. Thời kỳ này ít quan trọng đối với lịch sử, ngoại trừ việc Ít-ra-en đã hai lần bỏ rơi Thiên Chúa để tôn thờ ngẫu tượng là thần Ba-an và At-ta-rôt. Vì thế, Thiên Chúa đã trừng phạt họ, Ngài để cho ngoại bang xâm lăng. Nhưng Thiên Chúa từ bi đã không bỏ rơi dân đã tuyển chọn, Ngài cho xuất hiện những anh hùng mà ta gọi là Thủ lãnh (Thẩm phán) để dẹp giặc. Thánh Kinh đã ghi lại 12 Thủ lãnh sau:
          Sáu Thủ lãnh nhỏ: Sam-ga, Tô-la, Gia-ia, Ip-xan, Ê-lon và Ấp-đon.
          Sáu Thủ lãnh lớn: Ốt-ni-an, Ê-hút, Ba-rác, Gít-on, Gíp-ta và Sam-son
          * Gít-ôn (thắng quân Ma-đi-an). Đầu tiên Thiên Chúa gọi ông, ông thoái thác, nhưng Chúa hứa ở với ông (Tl 6,11-21). Việc tuyển lựa binh sỹ giảm từ 22.000 xuống còn 10.000, cuối cùng còn 300 mà vẫn thắng. Điều đó cho thấy sự cứu thoát là bởi quyền năng Thiên Chúa chứ không phải sức mạnh của con người (x. Tl 7,1-10).
          * Gíp-ta (thắng quân A-môn). Ông vướng phải lời thề oan nghiệt. Ông thề nếu chiến thắng trở về sẽ sát tế người nào mình gặp đầu tiên để dâng cho Chúa, không ngờ đó lại là con gái của mình (x. Tl 10,12). Lời thề tuy thô sơ, nhưng cũng làm nổi bật sự tuân giữ lời hứa một cách nghiêm túc cho dù phải tan nát cõi lòng.
          * Sam-son: Có sức mạnh vô địch, nhưng lại nhu nhược trước sắc đẹp và rượu chè, nên cuối cùng chết cách nhục nhã.
          Tóm lại, Thủ lãnh là những người hèn kém yếu đuối, nhưng họ được Thiên Chúa hỗ trợ, nên đã thực hiện được những việc phi thường. Điều đó cho thấy, Thiên Chúa muốn chọn sự bất toàn để làm những công việc vĩ đại miễn là đương sự để cho Thiên Chúa dẫn dắt mình.
          c. Khởi đầu thời quân chủ
          * Sa-mu-en: Ông sinh khoảng năm 1060 TCN lúc cha mẹ đã già (ông En-ca-na và bà An-na). Ngay từ nhỏ, ông đã được đưa vào Thánh điện để phụng sự Thiên Chúa thời tư tế Ê-li. Tại đây, vào một đêm ông đã được Thiên Chúa gọi, ông đáp lại: “Lạy Chúa, xin hãy phán dạy, tôi tớ Chúa đanglắng nghe” (1Sm 3,10).
          Trong vòng 20 năm từ khi Ê-li chết, Sa-mu-en là người lãnh đạo Ít-ra-en. Ông là vị thẩm phán cuối cùng và là vị ngôn sứ thứ nhất. Đời ông không hạnh phúc, vì Khám giao ước bị kẻ thù cướp mất, dân lại mất niềm tin vào Thiên Chúa.
* Vua Sa-un: Ít-ra-en luôn bị ngoại bang xâm lăng, họ cho rằng nguyên nhân là vì họ không có vua như những dân tộc khác. Vì thế, họ đòi Sa-mu-en phải tấn phong cho họ một vị vua. Dù Sa-mu-en không muốn, nhưng cuối cùng ông cũng đặt một người làm vua theo lời Thiên Chúa bảo (x.1Sm 8,19-22). Vị vua đầu tiên là Sa-un, thuộc chi tộc Ben-gia-min.
          Nếu xét về mặt chính trị thì khi có vua, các chi tộc sẽ liên minh chặt chẽ hơn, tổ chức quân đội sẽ hữu hiệu hùng cường hơn, nhưng đọc yêu cầu của dân chúng bằng cặp mắt đức tin thì quả thật yêu cầu này đã gián tiếp hạ bệ Thiên Chúa. Bởi vì, từ trước đến giờ chỉ có một mình Gia-vêThiên Chúa là vua duy nhất trên dân Ít-ra-en. Sa-mu-en đã chọn theo đức tin nhưng sau này thì Chúa truyền dạy, nên ông vâng phục và xức dầu phong vương cho Sa-un dẫu rằng việc làm này đi ngược lại với quan điểm của ông và gây cho ông nhiều đau khổ. Là người được Thiên Chúa tuyển chọn và xức dầu để đại diện cho Ngài, nhưng Sa-un đã nghe lời dân chúng hơn nghe lời Thiên Chúa. Vì thế ông bị Thiên Chúa loại bỏ. Kể từ đó, vua Sa-un luôn âu lo buồn phiền và trở nên tiều tuỵ. Ông ghen tị với công lao của Đa-vít và tìm cách để giết hại. Nhưng cuối cùng chính cuộc đời của ông lại kết thúc cách bi thảm.
2. Vua Đa-vít
          a. Vua Đa-vít với lời hứa của Thiên Chúa
- Vua Đa-vít
          Vua Sa-un không chu toàn nghĩa vụ, Sa-mu-en đã đến Bê-lem, tại nhà ông Giê-sê thuộc chi tộc Giu-đa để sức dầu phong vương cho cậu út Đa-vít (x. 1Sm 16,1-13). “Đừng xét theo hình dáng bên ngoài. Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (1 Sm ).
          Lúc đầu Đa-vít chỉ là tuỳ tùng của vua Sa-un, sau thành sỹ quan xuất sắc. Nhưng Sa-un luôn ghen ghét với Đa-vít vì ông thành công hơn, nên ông phải trốn đi. Ngược lại, Đa-vít luôn kính trọng Sa-un, vì là người được Thiên Chúa sức dầu. Hơn nữa, Đa-vít lại là bạn thân của Gio-na-than, con trai của Sa-un, và là con rể của vua.
          Khoảng năm 1000 TCN, vua Sa-un chết, Đa-vít lên kế vị ngai vàng. Ông có một hành động khôn ngoan là dời đô về Giê-ru-sa-lem, một thành không thuộc chi tộc nào. Từ đây, Giê-ru-sa-lem trở thành trung tâm chính trị, tôn giáo của Ít-ra-en. Dưới triều đại của ông, Ít-ra-en đã trở thành một quốc gia hùng cường trong vùng.
          Câu chuyện về cuôc đời Đa-vít sẽ thiếu sót nếu bỏ qua một trọng tội mà ông đã phạm: ngoại tình với vợ của Uria là Bát-sê-va, rồi âm mưu giết Uria để cưới nàng làm vợ. Nhưng Đa-vít đã vô cùng hối hận khi bị tiên tri Na-than khiển trách, ông nói: “Tôi đã phạm tội nghịch với Gia-vê” (1 V  ). Sau đó ông trai tịnh bảy ngày đêm. Một trong những hậu quả của tội ông đã phạm là Áp-sa-lôm, một người con của ông đã nổi loạn để cướp ngôi cha, rồi bị giết. Tuy nhiên, vua Đa-vít vẫn luôn thương đứa con ngỗ nghịch này. Ông đã khóc lóc thảm thiết khi hay tin con bị giết: “Áp-sa-lôm con ơi! Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay cho con” (2V 18,33). Đa-vít quả là một con người lạ thường: một cậu bé chăn cừu, một chiến sỹ anh hùng, một người si tình đến sát nhân, một thi sỹ, một đế vương, một người tội lỗi, một người biết thống hối, một người cha nhân từ, một người bạn trung tín.
          Tóm lại, Cuộc đời Đa-vít được đan dệt bởi ánh sáng và bóng tối. Nhưng trên hết mọi sự, Đa-vít luôn có lòng khiêm tốn và mến Chúa chân thành, vì vậy dù vấp váp, sa ngã ông vẫn được Chúa tha thứ và nâng đỡ trong cuộc đời.
          - Lời hứa của Thiên Chúa
          Sau khi đã chinh phục xong đất Ca-na-an, thiết lập biên giới rõ rệt, chọn Giê-ru-sa-lem làm thủ đô, vua Đa-vít nghĩ đến việc xây cất cho Thiên Chúa một đền thờ. Nhưng qua miệng ngôn sứ Na-than Thiên Chúa nói không phải Đa-vít làm cho Chúa, nhưng chính Chúa làm cho Đa-vít: “Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó Ta sẽ là cha, đối với Ta nó sẽ là con. Ta sẽ cho vương quyền nó vững mạnh” (x. 2Sm 7,13-16).
          Tại sao Đa-vít muốn xây dựng đền thờ cho Thiên Chúa? Một mặt vì lòng nhiệt thành của ông với Chúa; mặt khác, lòng dân sẽ hướng về đền thờ Thiên Chúa tại Giê-ru-sa-lem, cũng có nghĩa là họ hướng về triều đại Đa-vít. Kể từ đó, nghĩa là khi có lời sấm về Đấng Cứu Độ, trải qua bao thế hệ người Do-thái vẫn mong chờ Vị Cứu Tinh phát xuất từ dòng dõi Đa-vít.
          Lời sấm này thường được nhắc lại trong các sách khác của Cựu Ước, ngụ ý nói rằng: vương quốc của Đa-vít sẽ phổ quát cả về không gian và thời gian. Hơn nữa, các vua kế vị Đa-vít sẽ được gọi là con của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là các vua thuộc dòng dõi Đa-vít được bước vào giao ước Mô-sê và tôn giáo Mô-sê một cách độc đáo. Vị Cứu Tinh hay Đấng Cứu Độ ấy là chính Chúa Giê-su (x. Lc 1,32-33).
          Từ đây dân Ít-ra-en luôn hướng về triều đại và các vua thuộc dòng tộc Đa-vít, vì biết đâu vị vua này chính là Đấng Mê-si-a, hay ít ra họ cũng là trung gian làm cho Chúa Cứu Thế mau xuất hiện.
          Như thế với Đa-vít, chương trình cứu độ của Thiên Chúa tiến thêm một bước đầy ý nghĩa. Như Áp-ra-ham là cha của tất cả dân tộc Ít-ra-en, như Mô-sê là trung gian để Thiên Chúa ràng buộc Ngài với dân tộc này, thì Đa-vít là vị  vua Thiên Chúa chọn để thiết lập một vương quốc mà một ngày nào đó sẽ trở nên vĩnh cửu và phổ quát.
          b. Sau thời vua Đa-vít
          - Vua Sa-lô-môn: Ông là con trai của bà Bát-sê-va được chọn làm vua thể theo quyết định của vua Đa-vít lúc lâm chung. Lúc đầu, vua Sa-lô-môn rất khiêm tốn và đạo hạnh, nhưng sau vì say mê sắc dục nên xuống dốc (x. 1V 11,1-8). Mặt phải của ông là phát triển đất nước, xây cất đền thờ, tổ chức nghi lễ. Nhưng mặt trái của ông là thờ lạy tà thần, sưu cao thuế nặng, giữ đạo hình thức mà không có chiều sâu.
          Tuy nhiên, ông cũng có công là xây dựng Đền thờ nguy nga, lộng lẫy cho Thiên Chúa trong vòng 7 năm. Đền thờ dài độ 27 mét, rộng 9 mét, cao 13,5 mét, chia làm 3 phần chính: tiền đình, nơi thánh và nơi cực thánh. Khám giao ước được đặt ở giữa nơi cực thánh. Chỉ một mình vị thượng tế mới được phép vào nơi cực thánh một năm một lần vào dịp lễ đền tội. Ngoài ra, vua Sa-lô-môn cũng được mệnh danh là khôn ngoan, trong đó những lời khôn ngoan của ông đã được ghi lại trong sách Khôn ngoan và sách Thánh vịnh.
          - Sự phân chia vương quốc: Vua Sa-lô-môn chết, con là Rơ-kháp-am lên kế vị. Ông đã không giảm sưu thuế cho dân mà còn tăng thêm, nhất là khi dân chúng miền Bắc cho rằng chi tộc Giu-đa ở miền Nam không phải đóng thuế. Mối ganh tị Nam- Bắc có từ thời vua Đa-vít ngày càng tăng. Dưới sự lãnh đạo của Gia-róp-am (người miền Bắc thuộc chi tộc Ép-ra-im), toàn dân miền Bắc nổi lên chống lại dân miền Nam và đòi ly khai. Hậu quả là đất nước bị phân chia (khoảng năm 931): miền Nam gọi là nước Giu-đa, miền Bắc gọi là Ít-ra-en. Miền Bắc gồm 10 chi tộc, miềm Nam chỉ còn có chi tộc Giu-đa, một phần chi tộc Ben-gia-min và Si-mê-on.
          Để ngăn cản dân đi về Giê-ru-sa-lem, vua Gia-róp-am miền Bắc đã cho xây dựng hai đền thờ tại Đan và Bê-ten và cho thờ tượng bê vàng. Chính sự chia rẽ này là nguyên nhân làm cho vương quốc Ít-ra-en suy yếu và sau cùng dẫn tới thảm hoạ bị ngoại bang xâm chiếm và bị bắt đi lưu đày.

BẠN CÓ BIẾT ?
SÁCH KHÔN NGOAN
Đây là cuốn sách ra đời muộn nhất trong các sách Cựu ước, được soạn bằng tiếng Hi-lạp, vào thế kỷ thứ 1 trước công nguyên. Theo tác giả, sự khôn ngoan đích thật chỉ đến cùng Thiên Chúa, ai được nó thì có hạnh phúc, nhưng muốn có, phải cầu nguyện. Ông nhắc đến những kỳ diệu của công trình sáng tạo và của lịch sử để ca ngợi sự quan phòng sáng tạo của Thiên Chúa. Ông cũng quả quyết rằng sau khi chết, người lành sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn với Thiên Chúa.
SÁCH HUẤN CA
Đây là công trình của một hiền nhân thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, tên là “Giê-su con của Si-rắc”. Theo ông, sự khôn ngoan chính là sách luật giao ước, người khôn ngoan đích thật chính là người trung thành phụng sự luật Thiên Chúa.
SÁCH I-SAI-A
Một thi sĩ là I-sai-a được Thiên Chúa ban nhiệm vụ ngôn sứ vào năm -740, lúc 25 tuổi. Nhiệm vụ của ông là loan báo sự sụp đổ của Ít-ra-en và của Giu-đa; loan báo những hình phạt dành cho sự bất trung của dân. Ông thi hành sứ vụ trong 40 năm, vào thời nước Át-xi-ri đang chiếm ưu thế và thường xuyên đe doạ Ít-ra-en và Giu-đa.
I-sai-a là vị ngôn sứ của lòng tin. Trong những cuộc khủng hoảng của dân tộc, ông đòi hỏi mọi người chỉ tin tưởng nơi một mình Thiên Chúa.
Các chương 40-55 do một tác giả khác (gọi là I-sai-a thứ 2) viết trong thời lưu đày ở Ba-bi-lon, nhằm an ủi dân chúng và hướng lòng họ mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc. Phần này cũng nhấn mạnh Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, khôn ngoan và quan phòng. Trong phần này có 4 bài ca về Người Tôi Tớ Thiên Chúa, báo trước về Đức Kitô.
Các chương 56-66 được coi là công trình của một ngôn sứ khác nữa  (gọi là I-sai-a thứ 3).
SÁCH GIÊ-RÊ-MI-A
Giê-rê-mi-a là ngôn sứ ở Giê-ru-sa-lem sau I-sai-a khoảng 1 thế kỷ (năm -650). Ông đầy lòng yêu dân, nhưng ông lại là người cô độc, không được cảm thông, thường bị ngược đãi. Ông đã rao giảng, đe doạ, báo trước sự sụp đổ, cảnh cáo nhưng vô hiệu. Các vua bất tài kế tiếp nhau trên ngai vàng Đa-vít. Ông bị giới quân sự tố cáo là chủ bại, rồi bị bỏ tù. Năm -597, vua Na-bu-cô-đô-nô-sô chinh phục Giê-ru-sa-lem và bắt dân đi đày. Năm -587, dân Giê-ru-sa-lem nổi loạn, quân Ca-đê lại kéo đến chiếm thành, đốt đền thờ và bắt thêm dân đi lưu đày. Sau khi Giê-ru-sa-lem mất, Giê-rê-mi-a quyết ở lại quê nhà, nhưng sau đó, một nhóm người Do Thái chạy trốn sang Ai-cập đã lôi ông đi theo, và có lẽ ông đã chết ở Ai-cập.


KHÁI QUÁT VỀ CÁC NGÔN SỨ

1. Ngôn sứ là ai?
          Ngôn sứ mà ta thường gọi là tiên tri, nghĩa là những người có thể biết trước và báo trước tương lai. Định nghĩa này có phần đúng, nhưng việc báo trước tương lai không phải là tất cả và cũng không phải là chính yếu. Các ông là những phát ngôn viên của Thiên Chúa, những sứ giả mang Lời Chúa đến cho dân.
          Trong Cựu Ước, ngoài danh từ nabi (mà ta dịch là ngôn sứ) còn có những từ khác để chỉ các ông như: người thông suốt giác quan và linh cảm; người của Thiên Chúa, vì có những liên hệ mật thiết với Ngài (x. 2 V 1,9.11).
          Như vậy, ngôn sứ là người có kinh nghiệm về Thiên Chúa qua việc gặp gỡ, gắn bó với Ngài; được Thiên Chúa mặc khải về thánh ý, được giúp đỡ, soi sáng để đoán biết hiện tại và tiên báo tương lai; được Thiên Chúa sai đi để nhắc nhở cho nhân loại những yêu sách của Ngài và đưa nhân loại trở về cùng Thiên Chúa.
2. Các Ngôn sứ trong lịch sử Ít-ra-en
          Ngày nay người người ta thường phân chia các ngôn sứ là hai nhóm là các ngôn sứ lớn và các ngôn sứ nhỏ.
          - Các ngôn sứ lớn gồm 4 vị: I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-giê-ki-en, Đa-ni-en
          - Các ngôn sứ nhỏ gồm 12 vị: Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Ô-va-đi-a, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-khúc, Sô-phô-ni-a, Khác-gai, Gia-ca-ri-a, Ma-la-khi.
3. Ơn gọi các ngôn sứ
          - Xác tín vào ơn Chúa gọi: ơn gọi ngôn sứ hoàn toàn lệ thuộc ý muốn của Thiên Chúa, bất kể điều kiện xã hội, văn hóa của đương sự trong Cựu Ước, ta thấy kể lại việc Chúa gọi Mô-sê (x. Xh 3-4); Sa-mu-en (x. 1Sm 3); Is (x. Is 6); Giê-rê-mi-a (x. Gr 1),… Các ngôn sứ đều xác tín rằng mình nói Lời Thiên Chúa, thay mặt Ngài và xác tín như vậy vì ý thức rằng Chúa đã chọn gọi và sai các ông đi.
          - Gọi để làm gì? Gọi để dạy dỗ và giữ gìn dân Chúa trung thành với đạo Gia-vê. Để chuẩn bị, hướng dẫn họ tới thời sung mãn mà lãnh nhận mặc khải nơi Đức Ki-tô.
          - Đáp trả ơn gọi: Lúc đầu, nghe Chúa gọi, các ngôn sứ không hứng thú gì để lãnh nhận vì họ biết sứ vụ thật là nặng nề. Thí dụ: Mô-sê tránh né, Giê-rê-mi-a than thở (x. Gr 20,7-10); Giô-na bỏ trốn. Tuy rụt rè nhưng các vị cảm thấy có một sức mạnh thúc bách khiến họ không thể chối từ. Sức mạnh ấy không phải là một sự áp đặt khiến đương sự mất tự do, đúng hơn là họ bị Thiên Chúa quyến rũ. A-mốt bảo: “sư tử đã gầm lên, ai mà không sợ hãi? Đức Chúa đã phán truyền, ai lại chẳng nói tiên tri?”(x. Am 3,8). Từ đó, tất cả đời sống các ông gắn liền với sứ mạng, các ông thâm tín rằng lời các ông nói là Lời Thiên Chúa và mạnh dạn nói lên lời ấy mà không sợ khó khăn nguy hiểm.
4. Các ngôn sứ trình bày giáo huấn như thế nào?
          - Bằng lời nói: Công việc chính yếu của ngôn sứ là giảng dạy, trách mắng, vạch ra những lỗi lầm của dân, ngăn đe những tai họa có thể xảy đến, khuyến dụ, dạy bảo dân phải làm gì cho đúng ý Chúa và đôi khi còn hứa hẹn một tương lai tốt đẹp hơn. Các lời ngôn sứ thường ngắn gọn, đanh thép. Về sau những lời ấy được sưu tập lại thành những tập nhỏ, rồi những tập nhỏ góp lại thành sách (x. Gr 36).
          - Bằng hành động: Trước hết là những hành động tượng trưng, hành động xảy ra thì lời ngôn sứ cũng sẽ được thực hiện. Thí dụ, A-khi-a xé áo choàng làm 12 mảnh, trao cho Giê-rô-bô-am 10 mảnh để chỉ rằng ông này sẽ làm vua 10 chi tộc (x. 1 V 11, 29-32). Giê-rê-mi-a đạp vỡ chiếc vò bằng đất để nói rằng Gia-vê sẽ đập tan dân và thành Giê-ru-sa-lem (x. Gr 19,32). Đặc biệt, Ê-dê-ki-en có nhiều hành động tượng trưng (x. Ed 3,22-5,17). Mặt khác, chính đời sống của ngôn sứ còn là một lời giảng dạy. Những trắc trở Hô-sê gặp phải trong đời hôn nhân tượng trưng cho mối liên lạc nhiều sóng gió giữa Gia-vê và Ít-ra-en (x. Hs 1-3), cách sống khắc khổ của Ê-li-a và Gio-an Tẩy Giả nói lên sự tuyệt đối của Thiên Chúa.
5. Sứ điệp các ngôn sứ.
          - Thiên Chúa độc nhất: Trên núi Xi-nai, Thiên Chúa mặc khải Ngài là Thiên Chúa duy nhất, lại tuyển chọn Ít-ra-en làm dân riêng, rồi còn lập giao ước mới. Ba sự việc ấy gắn liền với nhau. Vì thế, Thiên Chúa như là Thiên Chúa riêng của dân Ít-ra-en. Tuy nói thế, các ngôn sứ cũng tỏ ra là Thiên Chúa nắm vận mệnh các nước trong tay, xét xử nước lớn cũng như nước bé (x. Am 1,2) và sử dụng các nước như dụng cụ để thưởng phạt (x. Am 6,11; Is 7,18-19). Vì lẽ Thiên Chúa là Chúa tể duy nhất của toàn cõi địa cầu nên không còn chỗ cho thần nào khác. Các ngôn sứ đương đầu với các tôn giáo dân ngoại. Các ngài đả kích và phỉ báng các tà thần (x. Hs 2,7-15; Is 40,19-20). Ngoài ra, các ngôn sứ còn cho biết các đặc tính của Thiên Chúa: Ngài là Thiên Chúa thánh thiện, Thiên Chúa công bình, Thiên Chúa tình yêu.
          - Ý thức về tội lỗi: Kỳ thực ý niệm về tội lỗi cũng như ý niệm về Thiên Chúa duy nhất không phải là điều mới mẻ lắm, vì đã có trong Mười Điều Răn (x. 2Sm 12; 1 V 21). Điều mới mẻ trong sách các ngôn sứ là các ngài thường nhắc đi nhắc lại rằng, tội lỗi phân cách con người ra khỏi Thiên Chúa ( x. Is 59,2). Vì tội lỗi tràn đầy nên Thiên Chúa phải trừng phạt, ngày của Thiên Chúa phải đến (x. Is 2,6-22). Muốn thoát khỏi hình phạt phải thực thi thánh ý của Thiên Chúa, làm điều chính trực, ăn ở khiêm nhu. Điều Thiên Chúa đòi hỏi là sống đạo thật lòng, có một tôn giáo nội tâm, vì thế, các ngôn sứ đả phá mọi nghi thức thiếu luân lý và đạo đức (x. Is 1,16-17).
          - Niềm tin vào ơn cứu độ: Thiên Chúa trừng phạt, nhưng điều Ngài muốn, không phải là trừng phạt mà là cứu độ. Ngài sẽ tha cho một số người còn lại. Theo các ngôn sứ thì số người còn lại là những ai thoát khỏi nguy hiểm bây giờ và hưởng ơn cứu độ mai sau (x. Am 5,15). Để thiết lập nước trời trên mặt đất, Thiên Chúa ban cho dân Đấng Mê-si-a, nghĩa là Đấng được ngài xức dầu phong vương, Đấng Mê-si-a sẽ từ dòng dõi vua Đa-vít mà ra (x. 2 Sm 7). Vì thế, Đấng ấy sẽ xuất hiện tại Bê-lem Ê-pha-ta (x. Mk 5,1). Thần Khí Thiên Chúa sẽ ngự trên Ngài với tất cả ân sủng (x. Is 11,1-5). Ngài là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (x. Is 7,14). Ngài là Thiên Chúa, Đấng đem lại công bình cho chúng ta (x. Gr 23,6).
          Với thời gian, nước nhà sụp đổ, dân chúng bị lưu đày, nhưng niềm hy vọng về nước Thiên Chúa và Đấng cứu độ vẫn tồn tại. Quan niệm nếu có khác là khác về Đấng cứu độ. Theo các ngôn sứ, Đấng cứu độ sẽ là tân Đa-vít, là mục tử (x. Ed 34,23-24), là Đấng khiêm nhu (x. Dcr 9,9), Đấng Mê-si-a sẽ là vị tôi trung của Thiên Chúa (x. Is 42,1-7). Còn ngôn sứ Đa-ni-en thì gọi là Đấng Mê-si-a là con người sẽ ngự giá mây trời mà đến. Trong mọi giai đoạn lịch sử dân Ít-ra-en đều mong đợi Đấng Mê-si-a và nhờ đó vẫn tin cậy. Nhưng lòng mong đợi và tin cậy đó phải nói là mơ hồ mãi cho tới ngày Đức Giê-su đến để thực thi những gì các ngôn sứ đã loan báo.
BẠN CÓ BIẾT ?
SÁCH AI-CA
Sách Ai-ca được soạn ở Pa-lét-tin sau khi Giê-ru-sa-lem sụp đổ năm -587. Sách gồm 5 bài thơ buồn dâng lên Thiên Chúa lời thương tiếc thành Giê-ru-sa-lem sụp đổ. Tuy nhiên, từ những lời ai oán ấy, lại toát ra một niềm tin không lay chuyển nơi Thiên Chúa và một tâm tình thống hối sâu xa.
SÁCH BA-RÚC
Theo lời mở đầu thì sách này do ông Ba-rúc là thư ký của ông Giê-rê-mi-a viết tại cảnh lưu đày ở Ba-bi-lon và gửi về Giê-ru-sa-lem để đọc trọng các buổi nhóm phụng vụ. Sách cũng an ủi những người lưu đày bằng cách nhắc lại niềm tin vào thời cứu thoát.
SÁCH Ê-GIÊ-KI-EN
Trong đám người bị lưu đày đợt 2, năm -587, có một vị ngôn sứ đi theo để an ủi khích lệ dân chúng. Đó là Ê-giê-ki-en. Thiên Chúa đã cho ông nhận thấy và tả lại cảnh vinh quang Thiên Chúa rời bỏ đền thờ Giê-ru-sa-lem để đến với những người bị lưu đày ở Ba-bi-lon. Ông kêu gọi đồng bào thật lòng hoán cải. Ông mạng mẻ đòi hỏi họ phải ý thức về trách nhiệm cá nhân, và ông mở cho họ thấy viễn tượng một giao ước mới trong Thánh Thân. Ông cũng báo trước rằng một ngày kia họ sẽ được trở về trong một đất thánh đã đổi mới, trong một Giê-ru-sa-lem mới hoàn toàn trung thành với Thiên Chúa, mà tên mới của Thành ấy sẽ là “Thiên Chúa ở đó”.
SÁCH ĐA-NI-EN
Sách Đa-ni-en được viết vào khoảng năm -165, trong thời kỳ có cuộc bách hại của vua An-ti-ô-cô Ê-pi-pha-nô và cuộc chiến tranh giải phóng. Mục đích là nâng đỡ ý chí kháng chiến của người Do-thái.
6 chương đầu kể chuyện một thiếu niên Do-thái tên là Đa-ni-en, phục vụ trong triều đình Ba-bi-lon và Ba-tư, mà vẫn luôn luôn trung thành với luật Chúa, bất chấp những khổ hình: bị ném vào lò lửa hay vào hang sư tử. Đa-ni-en còn giải thích các giấc mơ, tỏ rõ ý muốn của Thiên Chúa và báo trước về các đế quốc sẽ nối tiếp nhau trong tương lai cho tới ngày chiến thắng dứt khoát của Thiên Chúa và của những kẻ lành mà Thiên Chúa sẽ cho sống lại.
6 chương sau ghi lại các thị kiến về nước Thiên Chúa sẽ đến trong tương lai. Đó là một cuốc gia bao quát mọi dân nước, và không bao giờ chấm dứt. Đó là nước của các thánh, của Thiên Chúa, của Đấng Con Người đã được trao mọi quyền bính.


CÁC NGÔN SỨ LỚN

1. I-sai-a
a - Ơn gọi
I-sai-a là một nhà quí tộc có học thức, ông thi hành nhiệm vụ ngôn sứ rất lâu, trải qua bốn đời vua (U-di-a, Giô-tham, A-khát và Ê-dê-ki-a). Cuối cùng ông bị cưa đôi người dưới thời vua Mơ-na-sê.
Trong một thị kiến, I-sai-a thấy Thiên Chúa Chí Thánh xuất hiện với vinh quang rạng ngời. Ngôn sứ nhận ra mình là con người ô uế, Thiên Chúa đã thanh luyện ông và sai ông đi vào sứ vụ. Nhưng Thiên Chúa cũng cho biết người ta sẽ chẳng nghe ông và tai hoạ sẽ xảy ra. Tuy nhiên, Ngài cũng cho ông biết sẽ có “một số còn sót lại” và từ số sót ấy, dân sẽ được phục hồi.
b- Sứ điệp
            Trong suốt hành trình ơn gọi của mình, ngôn sứ I-sai-a không ngừng rao giảng những chân lý: Thiên Chúa là Đấng Thánh; phải tin tưởng vào một mình Ngài; phải thánh thiện trong tâm hồn chứ không chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi; sẽ còn sống sót một số người trung thành với Thiên Chúa giữa một dân tộc tội lỗi; Gia-vê đã chọn riêng Ít-ra-en và giao ước với họ; ơn cứu độ sẽ được ban cho dân ngoại và như thế, lời Thiên Chúa hứa cùng Tổ phụ Áp-ra-ham sắp được ứng nghiệm; Đấng Cứu Thế sẽ xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và tên Ngài là Em-ma-nu-en.
2. Giê-rê-mi-a
a- Ơn gọi
Giê-rê-mi-a là một người thuộc hàng tư tế chào đời vào khoảng năm 650 TCN, sống ở tiểu vương quốc Giu-đa phía Nam. Ông được Thiên Chúa yêu mến và tuyển chọn từ lúc còn là bào thai trong dạ mẹ, để thi hành một sứ vụ vượt quá ranh giới của nước Giu-đa. Khác với I-sai-a, Giê-rê-mi-a được Thiên Chúa kêu gọi làm ngôn sứ qua tiếng nói của nội tâm vào lúc ông được khoảng 25 tuổi (năm 625 TCN). Ông thoái thác và viện cớ là mình còn quá trẻ, chưa có quyền ăn nói và cũng không biết ăn nói. Nhưng Thiên Chúa đã bác bỏ lời thoái thác đó vì tất cả những gì ông sẽ nói đều xuất phát từ Thiên Chúa chứ không phải từ khả năng và lòng dũng cảm của con người. Để khích lệ Giê-rê-mi-a, Thiên Chúa hứa sẽ ở với ông và giúp đỡ ông hoàn thành sứ vụ.
b- Sứ điệp
Trong suốt cuộc đời của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a chịu sự chi phối của Lời Chúa. Ông được sai đi dùng Lời Chúa để đả phá tất cả những gì khiến dân Ít-ra-en an tâm, nhưng đồng thời cũng là người cổ võ việc xây dựng và vun trồng con đường sống mới theo ý định của Thiên Chúa.
3. Ê-dê-ki-en
a- Ơn gọi
Vào khoảng năm 593, bên bờ sông Cơ-va tại Ba-bi-lon, Ê-dê-ki-en được Thiên Chúa chọn gọi qua một loạt các thị kiến:
Thị kiến cuốn sách: Thị kiến này muốn nói, Ê-dê-ki-en sẽ phải thực hiện một sứ vụ thật khó khăn và cay đắng, nhưng khi thi hành ông lại cảm thấy ngọt ngào.
Thị kiến người canh gác: ông có nhiệm vụ cảnh tỉnh những người gian ác về lối sống của họ và ông sẽ phải trả lẽ trước Chúa về công việc này.
b- Sứ điệp
Sấm ngôn của Ê-dê-ki-en bao gồm: Thiên Chúa là Đấng siêu việt; Ngài thấu suốt mọi sự và hiện diện khắp nơi; đoạn tuyệt với quá khứ; thức tỉnh trách nhiệm cá nhân; kêu gọi mọi người hồi phục trong tương lai và cải tạo tâm hồn.
4. Đa-ni-en
a- Ơn gọi
Thông qua sách Đa-ni-en, một cuốn sách phức tạp về ngôn ngữ vì thuộc thể loại văn chương khải huyền, cho nên chúng ta cũng khó xác định về ngôn sứ Đa-ni-en và ơn gọi của ông. Theo suy luận của các học giả Thánh Kinh, có lẽ sách Đa-ni-en là do một tác giả năïc danh biên soạn rồi gán cho ông Đa-ni-en, một nhân vật theo truyền thống cổ xưa, vốn nổi tiếng vì sự khôn ngoan, công chính và trung thành với thần linh, với Thiên Chúa.
b- Sứ điệp
Sứ điệp của ngôn sứ Đa-ni-en được ghi lại trong sách mang tên ông. Nội dung của sứ điệp nói về nước Thiên Chúa, về quyền năng Thiên Chúa và lẽ cậy trông; về sự sống lại của thân xác.



LƯU ĐÀY VÀ HỒI HƯƠNG

1. Lưu đày
a. Nguyên nhân
Sau khi vua Sa-lô-môn mất, vương quốc Ít-ra-en bị phân đôi. Mười chi tộc phía Bắc đã ly khai lập thành tiểu vương quốc Ít-ra-en; hai chi tộc còn lại ở phía Nam lập thành tiểu vương quốc Giu-đa. Nhiều vua trong cả hai tiểu vương quốc này không cai trị dân theo ý của Thiên Chúa, họ không bao giờ giữ giao ước của Ngài. Theo gương các vua, dân chúng cũng không trung thành với giao ước, bắt chước các dân chung quanh để thờ các thần của họ. Đối với tiểu vương quốc phía Bắc, ngay từ khi mới lên cầm quyền, vua Gia-róp-am đã cho xây dựng 2 đền thờ tại Đan và Bê-ten, đồng thời cho thờ tượng bê vàng. Chính vì điều này mà năm 721 TCN, Thiên Chúa đã cho nước Ít-ra-en phía Bắc rơi vào tay đế quốc Át-si-ri để phạt tội họ. Thảm hoạ đó của tiểu vương quốc phía Bắc là lời cảnh báo cho dân chúng tiểu vương qu?c Giu-đa ở phía Nam. Nhưng họ đâu có hiểu, họ vẫn bỏ ngoài tai những lời cảnh báo của các ngôn sứ do Chúa gửi đến. Việc thờ phượng thì chuộng hình thức bên ngoài, tưởng rằng lễ vật có thể thay thế cho lòng yêu mến và vâng phục Thiên Chúa. Trong xã hội thì bất công đối với người nghèo, lợi dụng đồng loại một cách vô nhân đạo. Họ cũng chạy theo tà giáo, sùng bái ngẫu tượng. Cuối cùng điều phải đến đã đến, thành Giê-ru-sa-lem bị thất thủ năm 587 TCN và vua quan cùng với dân chúng bị bắt đi lưu đày bên Ba-bi-lon. 
b. Ý nghĩa
Khi quốc gia bị chia rẽ sau cái chết của Sa-lô-môn, vương quốc Giu-đa ở phía Nam vẫn vững mạnh hơn, không bị xáo trộn như vương quốc Ít-ra-en ở phía Bắc. Lý do là vì, dựa vào lời ngôn sứ Na-than, người dân phía Nam luôn nghĩ rằng quyền lên ngôi vua chỉ thuộc về một gia đình là gia đình Đavít mà thôi. Thiên Chúa đã khẳng định rằng vương quốc nhà ?a-vít sẽ có ngày trở thành rộng khắp và tồn tại mãi. Người dân Giu-đa hãnh diện và ỷ lại vào điều đó. Vì thế họ không nghe lời các ngôn sứ mời gọi hoán cải và 135 năm sau, Ít-ra-en sụp đổ, vương quốc Giu-đa cũng bị hủy diệt, vua quan và dân chúng đều bị lưu đày.
+ Các ngôn sứ phía Nam: Dân Giu-đa cũng dần dần mắc phải những tội ác của Ít-ra-en: việc thờ phượng thì chuộng hình thức bên ngoài, xã hội thì đầy dẫy những bất công. Trong bối cảnh ấy, nhiều ngôn sứ đã xuất hiện, đấu tranh kịch liệt để giữ cho Giu-đa xứng đáng là người bạn trăm năm trinh trắng của Thiên Chúa. Đáng kể là các ngôn sứ Mi-kha và I-sai-a. Hai vị này có phần thành công nhờ sự sáng suốt của vua Ê-dê-ki-a, nhưng ngay trong thời cải cách của vua này, tội lỗi Giu-đa vẫn còn đầy dẫy. Một thế kỷ sau có ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Vua Giô-si-a tìm được sách luật và hưởng ứng lời Giê-rê-mi-a để thực hiện cuộc cải cách, nhưng triều đại của ông chỉ được 13 năm. Các vua kế tiếp lại sa vào đường tà giáo.
Năm 587, sau một cuộc bao vây ác liệt khoảng một năm rưỡi, lực lượng của đế quốc Ba-by-lon đã tiến vào Giê-ru-sa-lem, phá hủy cả thành lẫn đền thờ. Vua quan và dân chúng bị lưu đày sang Ba-by-lon.
+ Trong cảnh lưu đày: Trong số người Giu-đa bị phát lưu lên đến khoảng 50.000 người. Họ phải đi bộ 700 dặm đến Ba-by-lon. Họ bước đi trong chán chường, vô vọng, đau khổ vì cuộc sống thiếu thốn trong những trại tập trung. Điều thử thách lớn nhất cho họ là thử thách về đức tin: ThiênChúa đã ở đâu khi thành Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt, và giờ đây Ngài ở nơi nào? Phải chăng tất cả chỉ là ảo vọng? Đền thờ, khám giao ước, hàng tư tế có ích gì?
Nhờ ngôn sứ Ê-dê-ki-en đi theo dạy dỗ, an ủi, dân Chúa lấy lại niềm hy vọng. Họ hiểu ra tội lỗi của họ và hiểu rằng điều Thiên Chúa chờ họ là tấm lòng. Ngài sửa phạt họ, vì Ngài muốn họ quay trở về, sống trung thành với Giao ước. Ngài thanh tẩy họ để họ xứng đáng là dân thánh của Ngài. Họ chỉ còn sót lại một nhóm nhỏ, nhưng Thiên Chúa chí thánh là Đấng hằng sống, Ngài không bỏ họ trong cõi chết. Ngài sẽ đổ Thần Khí ban sự sống của Ngài xuống trên họ. Họ sẽ được phục sinh và đổi mới. Thiên Chúa sẽ ghi khắc giao ước mới vào trong tim họ, sẽ thâu họp họ lại thành một dân mới để đem ánh sáng của Ngài đến cho muôn dân.
2. Hồi hương
a. Kirô vua dân ngoại, phóng thích dân Chúa
Na-bu-cô-đô-nô-sô, vua Át-si-ri, chết năm-560. Khoảng 20 năm sau, Ba-bi-lon sụp đổ của quân Ba-Tư và Mê-đê. Ki-rô đại đế, vua Ba-tư và Mê-đê, người sáng lập đế quốc Ba-tư hùng cường, đã vào Ba-bi-lon vào năm 539 TCN. Chỉ một năm sau, ông hạ chỉ cho những người lưu đày được hồi hương. Quả thật, ông là một vị vua đại lượng, biết tôn trọng những phong tục và những thần của các nước ông đã chinh phục. Ngôn sứ I-sai-a nói đến Ki-rô một cách kính cẩn đặc biệt, coi ông như một mục tử của Thiên Chúa (Is 44,28) và là kẻ được xức dầu của Thiên Chúa(Is45,1).
Năm 537 TCN, một năm sau khi sắc chỉ hồi hương được ký, người DoThái bắt đầu trở về Giu-đa. Nhiều người ở lại Ba-bi-lon vì  đã có nhà cửa đầy đủ tiện nghi và đã làm ăn phát đạt, tuy nhiên họ cũng bỏ tiền của ra để giúp đỡ những người hồi hương. Nhóm người Do Thái đầu tiên lên đường hồi hương dưới sự lãnh đạo của thượng tế Giô-sua (thuộc dòng dõi A-ha-ron) và hai người thuộc hoàng tộc là Sát-sa-ba-sa và Giô-rô-ba-ben (ông này thuộc dòng dõi Đa-vit). Hai ông là những người đầu tiên cai trị nước Giu-đa mới được phục hồi, nhưng chỉ là những viên chức được vua Ba-tư bổ nhiệm và hoàn toàn thuộc quyền vua Ba-tư. Cuộc sống của những người mới hồi hương gặp khó khăn về mọi mặt. Đây đúng là nhóm người nhỏ bé, là phần “dư tồn”, “số còn sống sốt” mà trước đây các ngôn sứ đã loan báo. Họ tụ tập lại trên đỉnh núi Thánh Sion mà dâng lễ hy sinh cho Thiên Chúa. Sau đó là công việc tái thiết đền thờ và thành phố.
b –Tái thiết đền thờ
Lúc đầu người ta phấn khởi, nhưng càng ngày càng ra uể oải, chần chừ, phần vì những dân xâm chiếm đất đai gây khó khăn, phần vì đám dân Samari miền bắc gây cản trở. Hai ngôn sứ Hác-gai và Da-ca-ri-a xuất hiện và hăng hái cổ võ lòng nhiệt thành của dân chúng. Sau cùng đền thờ đã được tái thiết y một kích thước theo hoạ đồ của đền thờ Sa-lô-môn và được cung hiến vào năm 515 TCN (tức là 17 năm sau khi hồi hương). Đây là đền thờ thứ hai, cũng gọi là đền thờ của Giô-rô-ba-ben. còn tường thành, sau khi được phép của vua Ba-tư, đã được Nê-hê-mi-a (445) đôn đốc tái thiết trong vòng hai tháng.
c- Phục hồi về mặt thiêng liêng
Nêhêmya có mặt ở Giêrusalem một thời gian thì Ét-ra, vị tư tế kí lục cũng đến đó. Ông này góp phần vào sự phục hồi Giuđa về mặt thiêng liêng. Điều này được mô tả trong sach Neh 8-9. Chương 8 thuật lại việc Ét-ra tập họp những người Giu-đa tại phía cổng nam đền thờ và độc cho họ nghe bản luật Mô-sê, cũng gọi là sách ngũ kinh, tức năm quyền đầu của bộ kinh thánh. Khi đọc, ông thường dừng lại ở nhiều đoạn để các Lêvi giải thích cho dân hiểu ý nghĩa những đoạn đã nghe. Chương 9 mô tả một cuộc hội họp long trọng khác, trong đó Ét-ra hướng dẫn dân chhúng cử hành lễ nghi nhắc lại giao ước cách trọng thể, ông thuật lại việc Thiên Chúa dựng lên thế giới đã kêu gọi Áp-ra-ham làm tổ phụ dân Người, đã cứu Ít-ra-en thoát cảnh nô lệ Ai cập, đã làm cho dân Ít-ra-en trở thành một gia đình ton giáo của Người trên núi Sinai, rồi sau đó đã dẫn dân Người vào đất hứa. Ét-ra cũng nói đến tội của Ít-ra-en thường xuyên bất tín bất trung  với Thiên Chúa. Nghe lời Ét-ra giảng dạy, dân chúng đã công khai thú tội và khẳng định ý muốn của họ là tự nguyện bước vào giao ước mới với Thiên Chúa.
C. KẾT THÚC


DỌN LÒNG ĐÓN NHẬN ĐẤNG CỨU THẾ

1. Quan niệm về Đấng Cứu Thế
a. Về mặt chính trị – xã hội
Từ khi trở về quê (hồi hương), dân Do-thái bị đế quốc Ba-tư cai trị gần 200 năm; đế quốc Hy-lạp cai trị gần 200 năm nữa. Năm 166 trước Chúa Giê-su giáng sinh, anh em nhà Ma-ca-bê đã lãnh đạo toàn dân vùng lên khởi nghĩa và dành độc lập được khoảng 100 năm. Đến năm 62 trước Chúa giáng sinh, họ lại bị rơi vào tay đế quốc Rô-ma.
Dưới ách thống trị của ngoại bang, dân Do-thái ngày đêm mong đợi Đấng Mê-si-a (Đấng Cứu Thế) mà các ngôn sứ đã loan báo. Tuy nhiên, đa số dân chúng trong lúc đó chưa hiểu được vai trò đích thật của Đấng Mê-si-a là cứu chuộc loài người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Họ mong ước được giải phóng về mặt chính trị cho nên họ hình dung Đấng Cứu Thế sẽ đến như một vị vua trần gian, một nhà cải cách xã hội, hoặc một sứ giả từ trời xuống dùng mọi thứ quyền phép để bình định thiên hạ.
b. Về mặt tôn giáo
Thời đó trong dân Ít-ra-en cũng có những người sống tinh thần nghèo khó, họ khao khát mong chờ Đấng Cứu Thế theo gương các ngôn sứ loan báo:
Ngôn sứ I-sai-a cho biết, Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh nữ sinh ra và được đặt tên là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7, 14). Người là Tôi Trung của Thiên Chúa, phải chịu nhiều đau khổ vì chúng ta (x. Is 52, 13 - 53).
Ngôn sứ Mi-kha báo trước rằng, Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở Bét-lem nước Giu-đa (x. Mk 5, 1).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en báo trước Đấng Cứu Thế sẽ lập giao ước mới, ban Thánh Thần của Ngài cho ta (Gr 31, 31-34; Ed 36, 24 - 28). Chuyện ông Giô-na ở trong bụng cá ba ngày nhằm báo trước rằng Đấng Cứu Thế sẽ chết chôn trong mồ và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mt 12, 40).
Những người mong đợi Đấng Cứu Thế theo hướng tâm linh này được gọi là nhóm những người nghèo của Chúa. Tiêu biểu là Đức Maria, Mẹ Chúa Giê-su, thánh Giuse, ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét, cụ Si-mê-on, cụ An-na… họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến thiết lập Nước Thiên Chúa, một nước rộng lớn lan tràn khắp thế giới. Ngài sẽ xây dựng một Đền thờ mới cho các dân tộc đến thờ phượng Thiên Chúa. Ngài sẽ thiết lập một giao ước mới và đổi mới tâm hồn mọi người. Đó là những hình ảnh về Nước Thiên Chúa mà Đấng Cứu Thế sẽ thiết lập.
2. Gio-an Tẩy Giả – vị Tiền hô của Đấng Cứu Thế
a. Con người của Gio-an
Vào những ngày Chúa Giê-su sắp xuất hiện rao giảng Tin mừng, người ta xôn xao nhắc lại cho nhau một lời sách ngôn sứ Isaia: “Có tiếng người hô trong hoang địa, hãy dọn đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Lc 3, 4). Người ta xôn xao như thế bởi vì ông Gio-an Tẩy giả đã khởi sự rao giảng. Tin mừng Thánh Mát-thêu cho biết, Gio-an Tẩy giả là con của tư tế Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét đã được sinh ra cách lạ lùng. Hai ông bà là người hiếm muộn, nhưng Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin, sai sứ thần đến truyền tin cho ông : “ ...bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời.” (Lc 1, 13-14). Để làm bảo chứng cho niềm tin ấy, Thiên Chúa đã để cho ông Da-ca-ri-a bị câm cho đến khi Gio-an được chào đời. Trình thuật Thánh Kinh cũng cho biết, Gio-an càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Ông vào sống ẩn dật trong hoang địa, ăn châu chấu và uống mật ong rừng, cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en tại vùng sông Gio-đan. Sau cùng, ông bị vua Hê-rô-đê chém đầu do sự xúi dục của hoàng hậu Hê-rô-đi-a, vì ông đã ngăn không cho vua lấy vợ của em mình.
b. Sứ điệp của Gio-an Tẩy giả
Theo suy luận của nhiều học giả Thánh Kinh, Gio-an Tẩy giả được coi là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước. Ông được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế, như đã chép trong Tin mừng theo Thánh Lu-ca rằng: “Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” (Lc 1, 16-17). Để thực hiện sứ vụ đó, Gio-an Tẩy giả đã làm phép rửa giúp mọi người thống hối, sửa đổi đời sống để tiếp nhận Đấng Cứu Thế.

                           Tài liệu Giáo lý Thánh Kinh do BGL Gp. Thái Bình sưu tầm và biên soạn (2008)

No comments:

Post a Comment