Thursday, May 8, 2014

Truyện cười công giáo 3

KINH THÁNH VÀ CHUYỆN ĂN UỐNG

Ba ông thầy dòng đi thành phố về, dọc đường ghé vào một quán nhỏ ăn trưa. Quán hôm ấy chỉ có thịt luộc, cá kho và rau muống chấm mắm ớt. Một thầy nổi hứng đề nghị :
- Hễ ai đọc được câu Kinh Thánh chỉ về món ăn nào, thì ăn món đó. Hễ ai không đọc được thì phải chờ người khác ăn xong mới được ăn.
Hai thầy kia nổi máu anh hùng, chịu liền.
Thầy thứ nhất thấy đĩa thịt liền đọc :
- “Mọi động vật sẽ là thức ăn của ngươi”. Đọc xong, thầy kéo đĩa thịt về phía mình.
Thầy thứ hai thấy đĩa cá vội tiếp luôn:
- “Cầm năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho …” Thầy vừa đọc vừa kéo đĩa cá kho về phía mình, đắc thắng.
Đĩa rau muống còn đó. Ai nấy đều nặn óc cố nghĩ ra câu Kinh Thánh nào nói đến rau muống.
Bỗng thầy thứ ba mỉm cười, một tay cầm chén nước mắm, một tay bốc rau luộc chấm vào mắm, vừa đọc vừa vẩy vào hai thầy kia :
- “Lạy chúa, xin dùng cành hương thảo rảy nước trên tôi, thì tôi được sạch !”
Hai thầy bị vẩy nước mắm la toáng lên, và vội vàng đi lau rửa. Thầy thứ ba còn lại, ung dung… xơi hết.



SỐNG LỜI KINH THÁNH
Một ông trẻ tuổi mới được bầu lên làm chủ tịch cộng đoàn. Cha xứ dặn ông:
- Chúng ta phải sống Lời Kinh Thánh, có nghĩa là chúng ta nói gì cũng bắt đầu với Lời Kinh Thánh. Thí dụ như có ai đến tìm cha mà cha chưa ra, thì ông hãy nói:
- Giờ cha chưa đến. Ông nhớ chưa?
Tuần sau, lễ bổn mạng cộng đoàn vào lúc 5 giờ sáng. Cha xứ vì mệt nên ngủ quên. Cả cộng đoàn đọc hết 150 Kinh thì cha mới ra. Vừa thấy cha ở dưới cuối nhà thờ, ông tân chủ tịch vội bước lên bục cầm micro nói lớn:
- Giờ cha đã đến!
Cha xứ: ???!!!... 

TẠI SAO CHÚA GIÊSU KHÔNG LẬP GIA ĐÌNH
Đức cha Nho có kể một câu chuyện độc đáo.

Khi ra ngoài Bắc, có một câu hỏi rất khó mà giáo dân đã đặt ra với Ngài: "Tại sao Chúa Giêsu đã làm người, đã hội nhập với cuộc sống nhân loại, mà không chịu lập gia đình, vẫn sống cuộc đời độc thân cho đến chết?"

Câu hỏi làm Ngài bí quá, chưa biết trả lời sao! May quá, một ngày kia, Ngài đến Thái Bình, và đã tìm được lời giải đáp chí lý, qua câu Kinh Thánh mà người miền quê vùng đó đã đọc chữ "L" thành chữ "N":

- Chúa Giêsu đã đi từ "nàng" này sang "nàng" khác, nhưng các "nàng" đã không tiếp nhận Ngài, nên Ngài đã bỏ các "nàng" mà đi nơi khác.

Đức Cha giải thích: "Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã sống đời độc thân."

Mọi người cười rộ lên. Ngôn ngữ Việt nam thật là lắt léo !?


CHỤP HÌNH BA NGƯỜI

Gần tới ngày đám cưới, con gái hỏi mẹ: Mẹ ơi! Mình là người Công giáo, không tin mê tín dị đoan, nhưng tại sao mọi người vẫn kiêng chụp hình ba người trong đám cưới?
Mẹ : Ồ con gái cưng của mẹ, chụp hình ba người xui lắm. Con không thấy những hình ảnh và tượng của gia đình Thánh Gia có ba người hay sao? Thánh Giuse thì chết sớm, Chúa Giêsu bị đem đi đóng đinh, còn lại một mình Đức Mẹ. Như vậy không xui hay sao?
Con gái: ???!!! 


TRÊN THIÊN ĐÀNG GỌI NHAU LÀ GÌ?

Một hôm, cha xứ tới nhà dùng cơm và hỏi bé:
- Con biết trên thiên đàng người ta gọi nhau bằng gì không?
Bé đáp tỉnh bơ:
- Thưa cha, bằng em...
Cha xứ lấy làm ngạc nhiên:
- Sao con lại trả lời như thế?
Bé:
- Tôi hôm qua, con nghe ba con nói chuyện trên phôn rằng, "em là thiên đàng của anh".
Cha xứ: !!!???....


TÁM MỐI PHÚC THẬT

Một cha nọ nổi tiếng là giảng lâu. Trong một thánh lễ, cha đang giảng về tám mối phúc thật. Giảng mới tới phúc thứ ba mà đã nửa tiếng, bỗng nhiên đến phúc thứ tư, cha quyên mất nên ngập ngừng:
- Phúc thứ tư, phúc cho ai.... phúc cho ai....
Ông trùm ngồi dưới nóng lòng đáp lớn:
- Phúc cho ai không nhớ mà quên.
Cả nhà thờ: !!!??? 

NÓI "LỐI"

Trên 1 chuyến bay sắp đáp, có 1 Cha già ngồi cạnh 1 cô gái. Cô gái này có mang theo 1 chiếc máy sấy tóc cũ kĩ, nhưng theo luật thì không được đem xuống sân bay, khi qua cổng sẽ có cảnh sát kiểm tra.
Cô nói với Cha rằng: thưa Cha con có mang theo 1 cái máy sấy tóc cũ nó là vật kỉ niệm chồng con đã tặng, con rất quý nó, nhưng không biết làm sao đem xuống sân bay được, Cha có thể nào giúp con được không Cha? Chắc người ta sẽ không làm khó Cha đâu!
Vị Cha già từ tốn trả lời: Cha luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người, nhưng Cha nói trước là Cha không biết nói dối đâu đấy! Cha có thể giấu nó ở đâu được?
Cô ta mừng rỡ đáp: vâng cám ơn Cha nhiều!!! Cha có thể giấu nó dưới chiếc áo dòng của Cha đó ạ!
Cha già lại nói: được thôi!
Khi máy bay vừa đáp, hành khách từ từ bước xuống. Cô gái đã bước qua cổng kiểm tra, tới lượt vị Cha già đáng kính, người kiểm tra hỏi: thưa Cha, Cha có gì để khai báo không ạ?
Cha thành thật trả lời: vâng, từ thắt lưng trở lên thì không có gì cả, nhưng từ thắt lưng trở xuống thì tôi có 1 thứ mà phụ nữ rất thích, nhưng nó đã cũ kĩ lắm rồi.
Người kiểm tra nhìn Cha cười và nói: Cha vui tính quá, mời Cha qua!

XƯNG TỘI

Có 1 người đến tòa giải tội, hắn thưa với Cha rằng: thưa Cha, nếu con đã phạm tội trọng thì có được tha không Cha?
Cha trả lời: được chứ Thiên Chúa là Đấng quan phòng Ngài sẽ tha thứ mọi tội lỗi cho con. Nhưng con đã phạm tội gì?
Hắn ta trả lời: thưa Cha co đã lỡ ăn cắp giày của... hắn ta ngập ngừng
Cha hỏi: con ăn cắp giày của ai con cứ nói.
Hắn ta nói tiếp: dạ là giày của... Cha đó ạ! Nhưng Cha có tha tội cho con không?
Cha hoảng hồn nhìn xuống chân mình và nói tiếp: đương nhiên là tội con được tha, nhưng việc đền tội là con phải trả giày lại cho Cha!

LINH MỤC VI PHẠM LUẬT GIAO THÔNG

Có 1 Cha Sở, mỗi ngày đều đi làm lễ tại các giáo điểm, đều đi ngang qua 1 ngã tư. Có 1 ông cảnh sát giao thông trực tại ngã tư này, ngày nào cũng thấy Cha đi ngang qua. Một ngày nọ, tên cảnh sát có chuyện bực mình ở nhà, hắn cũng ra ngã tư trực, gặp Cha đi ngang qua, hắng thổi còi gọi Cha vào, vị Cha già nghĩ bụng: mình tuân thủ luật lệ giao thông đàng hoàng sao cảnh sát lại thổi? thôi mình đâu có gì phải sợ. Vị Cha già quay xe chạy vào, tên cảnh sát hỏi giấy tờ, Cha mang theo đầy đủ, hắn lại hỏi: tại sao lúc nào Cha cũng đi 1 mình? Cha trả lời: không, không bao giờ tôi đi 1 mình hết luôn có Chúa và Đức Mẹ đi theo tôi. Tên cảnh sát cười và nói: vậy tôi phạt Cha vì tôi dám chở 3...



Truyện cười công giáo 2

Đệ Nhất Tiếp Thị
Có một anh chàng thanh niên kia nổi tiếng là ăn chơi, khi đọc dòng chữ ghi trên tấm bảng trước cửa thiên đàng: "Nơi đây là cõi phúc, chỉ lo đọc kinh, cầu nguyện và ca tụng Chúa." và anh chàng nhìn xuống dưới cửa hỏa ngục thấy ghi dòng chữ: "Nơi đây là đệ nhất ăn chơi, nhậu bia ôm, mássage, nhảy đầm thâu đêm, phục vụ 24/24 tất cả đều không trả tiền". Anh chàng thấy thích quá, bèn xuống mở cửa đi vào bên trong. Ôi ! chẳng thấy gì hết, chỉ toàn là quỉ dữ và dầu xôi lửa nóng. Anh chàng liền hỏi con quỉ chúa: "Sao không thấy ăn nhậu gì hết vậy?" Con quỉ chúa cười khoái trá và nói: " Đó chỉ là quảng cáo tiếp thị thôi cha nội."

Trúng Vé Số
Chuyện kể rằng, có một anh chàng thanh niên kia đứng dưới chân tượng Thánh Cả Giuse và cứ lẩm bẩm rằng:
"Xin cho con được trúng số độc đắc dù chỉ một lần thôi"
Thánh Cả mỉm cười cúi xuống vỗ nhẹ vào vai chàng thanh niên: "Nè, con có bao giờ mua vé số đâu mà trúng"
Tủi Thân Cho Em
Tờ 100, tờ 50 và tờ 1 đô la tình cờ hội ngộ trong bóp của bà trùm ở xứ đạo Việt Nam.
Tờ 100 đô lên tiếng trước.
Các cậu biết không? Tớ đã đi gần khắp thế gian rồi nhé. Sang cả Úc Châu, Âu Châu, Phi Châu, Á Châu rồi nhá.
Tờ 50 đô phụ họa.
Em cũng được đến nhiều nơi lắm rồi anh ạ. Sài Gòn, Las Vegas, Reno, Pháp quốc, Hàn Quốc và nhất là các cửa tiệm thời trang ở Hoa Kỳ là em đi hết cả rồi. Thế gian thật nhiều chỗ ngoạn mục.
Tờ 1 đô la bổng oà lên khóc nức nở.
Tủi thân cho em quá, tuần nào em cũng chỉ được đi tới nhà thờ thôi ạ.
Ông Tổ Của Vị Chủ Tịch 

Có một vị chủ tịch của một xã nọ thuộc miền quê ở Việt Nam, trong một buổi họp chính trị tư tưởng với đồng bào của xã, vị chủ tịch lớn tiếng hỏi rằng: "Đồng bào có biết con người từ đâu ra không?"
Sau một hồi im lặng, có một cụ già công giáo giơ tay lên trả lời: "Dạ thưa chủ tịch, từ 2 ngàn năm trước ai mà không biết là con người do Thiên Chúa tạo ra, ạ."
Vị chủ tịch tỏ vẻ bực tức, anh ta đập tay lên bàn thật mạnh :"Từ nay cụ phải nói là con người do khỉ mà ra rõ chưa?"
Cụ già mỉm cười tỏ vẻ tha thứ cho sự hỗn xược và cụ hỏi lại vị chủ tịch:"Con người do khỉ mà ra, vậy có bao giờ chủ tịch kêu con khỉ bằng ông nội, ông cố, hay là ông sơ chưa?"


Mèo
Ngày xưa, các vị cố Tây người Pháp qua Việt Nam của chúng ta để truyền đạo, vì vậy tiếng Việt của các Ngài không được thông thạo như chúng ta, nên nhiều khi gây ra những chuyện hiểu lầm , chuyện buồn cũng có và chuyện vui cười ra nước mắt cũng có.
Đặc biệt là câu chuyện mà tôi thường được nghe kể là:
Có một anh chàng thanh niên khi vào xưng tội với vị cố Tây, anh ta xưng rằng: " Thưa cha, con đã có một vợ và hai đứa con thơ dại, con rất thương vợ và thương các con của con , nhưng mà con có một cái tội lớn lắm cha ạ !"
Ông cố Tây:" Chúa nhân từ, con cứ việc xưng tội."
Chàng thanh niên:"Dạ thưa cha, con đã có vợ mà còn có Mèo nữa ạ !"
Ông cố Tây:"Có mèo đâu có sao con, cha cũng có mèo mà !"
Điều Răn Thứ 2
Có lẽ ai trong chúng ta cũng đều biết là ở Việt Nam của mình cúp điện là chuyện xảy ra hàng ngày như cơm bữa phải không qúy vị? Vào một buổi tối cúp điện trời tối đen như mực, trong nhà thờ chỉ có một vài cây đèn dầu, có một cô bé đi dâng thánh lễ, vì không thấy rõ lối đi nên vấp phải chân ghế trong nhà thờ té ngã và cô bé la lên :" Mô Phật "
Ngay lúc đó, có một cụ già đến đỡ cô bé đứng lên và hỏi :"Sao con lại kêu Mô Phật trong nhà thờ."
Cô bé cám ơn cụ già và tỉnh bơ trả lời một cách vô tội vạ :"Dạ dạ... nếu con kêu lạy Chúa tôi thì con lỗi phạm đến điều răn thứ hai là kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ ạ....!"
Cái Bao
Chuyện kể rằng, có một vị linh mục già ở giáo xứ nọ chết đã lâu nhưng chưa được vào cửa thiên đàng vì ông thánh Phêrô bắt đứng đợi ở cửa chờ đến lượt. Một ngày kia thì bà sơ giúp việc ngày trước của vị linh mục cũng chết và khi đến cửa thiên đàng , bà sơ gặp lại vị linh mục và hỏi :" Ủa, cha chết lâu rồi sao còn đứng ở đây? "
Vị linh mục trả lời :" Ông thánh Phêrô bảo phải đợi".
Bà sơ liền dẫn vị linh mục ra ngoài đưa cho "cái bao" và nói với vị linh mục :" Sao cha dở quá, gặp những chuyện rắc rối là phải gặp các sơ. Thôi bây giờ cha cứ cầm cái bao này đi vào và nếu ông thánh Phêrô có chận lại thì cha cứ việc biếu tặng cái bao này cho ông thánh Phêrô."
Nghe theo lời của sơ, vị linh mục già đi vô thì ông thánh Phêrô chận lại hỏi, vị linh mục già liền mở cái bao đưa cho ông thánh Phêrô, ngay lập tức ông thánh Phêrô niềm nở cầm tay vị linh mục kéo vô trong cửa thiên đàng và nói: " Cha vào nhanh đi, đứng ở đây hoài thì thật là phiền cho con."
Khi vào bên trong cửa thiên đàng, vị linh mục già mới hỏi bà sơ: " Cái gì ở trong bao mà linh thiêng vậy?"
Bà sơ cười cười và nói nhỏ vào tai vị linh mục già khả kính: "Dạ ...dạ, con gà cồ."
Xương Chúa
Có một anh chàng thanh niên ở một giáo xứ nhỏ thuộc miền quê của thành phố nọ, anh ta nổi tiếng là bê bối, rượu chè say sưa từ ngày này qua ngày kia nên người đời gọi anh ta là "Con sâu rượu". Vào một ngày Chúa Nhật đẹp trời, anh chàng thanh niên đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật và đi lên rước mình máu Chúa trong lúc anh ta đang say rượu. Khi vị linh mục thấy anh ta, thì rất là lúng túng vì biết rằng không thể cho kẻ say rượu rước mình máu Chúa. Nhờ ơn Chúa sáng soi, ngay lúc đó, vị linh mục nhớ là mình có một hột nút áo dòng bị đứt đang nằm trong túi, Ngài liền lấy ra và đút vào miệng anh chàng thanh niên. Sau khi rước mình máu Chúa, anh chàng thanh niên cảm thấy sao mình máu Chúa hôm nay cứng quá, anh ta nghĩ thầm: " Chắc là hôm nay ta không được may mắn nên nhận lãnh trúng xương của Chúa."
Hiền Như "BÀ"
Có một vị linh mục thấy hai vợ chồng đang đứng cãi nhau trước nhà thờ, vị linh mục liền nhanh chân đến để giải hòa thì bà vợ nhanh tay hơn cầm lấy chiếc giày cao gót đánh vào đầu ông chồng và nói với vị linh mục :" Cha có thấy con hiền như vầy mà ổng cứ bảo là con hung dữ."
Vị linh mục gật đầu và nói :" Dạ dạ, hiền như bà thì khỏi phải nói ạ"
Chúa đã nói gì ?
Trong một thánh lễ hôn phối, vị linh mục già khả kính hỏi các giáo dân của Ngài :"Các con có biết là Thiên Chúa đã nói gì với những người lập gia đình ?"
Sau một hồi im lặng, bổng có một em nhỏ giơ tay nhanh nhảu trả lời :"Dạ thưa, Chúa đã nói rằng: Xin Cha tha tội cho chúng, vì chúng không biết việc chúng đang làm."
Xem Tivi
Tư Cầu Muối nổi tiếng là mê đá banh, nên sáng Chúa Nhật không dậy nổi để đi lễ. Anh chàng nằm dài trên giường, mở Tivi ra xem lễ.
Khi chết đi, gặp thánh cả Phêrô, Ngài coi hồ sơ xong liền phán:
Con ở dưới đó làm biếng đi lễ Chúa Nhật , xuống dưới hỏa ngục ngay tức khắc.
Thưa Thánh Cả, oan cho con lắm , Chúa Nhật nào con cũng mở Tivi ra xem lễ để thông công cùng Hội Thánh mà.
Vậy thì cho con cái Tivi nầy, để mang xuống dưới đó mà xem cảnh thiên đàng. 


                                                                                          Sưu tầm

Truyện cười công giáo 1

                                                                           PHỤ NỮ

   Ngày xửa ngày xưa Chúa đã tạo dựng một người Nam và ban cho anh ta một sinh vật gọi là phụ nữ để làm vợ yêu dấu. Người đàn ông than phiền với Chúa:
Nếu Ngài hôn cô ta, Ngài không còn là quý ông nữa. Mà nếu không thì Ngài không phải là đàn ông.
Nếu Ngài khen ngợi cô ta, cô ta cho là Ngài nói dối. Mà nếu không thì Ngài là người vô tích sự.
Nếu Ngài luôn đồng ý với cô ta, cô ta sẽ lợi dụng Ngài. Mà nếu không thì Ngài là người thiếu hiểu biết.
Nếu Ngài lãng mạn, Ngài là một người từng trải. Mà nếu không thì Ngài chỉ là “đàn ông một nửa”
Nếu Ngài thăm viếng cô ta thường xuyên, cô ta nghĩ vậy là nhàm chán. Mà nếu không thì cô ta tố cáo Ngài là người hai lòng.
Nếu Ngài ăn mặc bảnh bao, cô ta nói Ngài là người ăn chơi. Mà nếu không thì Ngài là chàng trai chán ngắt.
Nếu Ngài ghen, cô ta cho Ngài là dở hơi. Mà nếu không thì cô ta cho là Ngài không yêu cô ta.
Nếu Ngài cố làm người hào hoa, cô ta cho là Ngài không tôn trọng cô ta. Mà nếu không thì cô ta nghĩ là Ngài không thích cô ta.
Nếu Ngài trễ một phút, cô ta phàn nàn là “chờ muốn chết”. Mà nếu cô ta trễ, cô ta nói “con gái là thế”.
Nếu Ngài đi thăm người khác, cô ta cho Ngài là người đáng khinh. Mà nếu cô ta được người khác thăm viếng thì cô ta nói “đó là tự nhiên thôi, vì con gái mà”.
Nếu lâu lâu Ngài hôn cô ta, cô ta cho là Ngài lạnh lùng. Mà nếu hôn cô ta nhiều quá thì cô ta hét lên “đồ lợi dụng”.
Nếu Ngài không giúp cô ta băng qua đường, Ngài là người không ga-lăng. Mà nếu làm luôn thì cô ta nghĩ Ngài là người khôn khéo, lợi dụng và có ý đồ.
Nếu ngài nhìn chằm chằm vào mặt người khác, cô ta cho là Ngài đang tán tỉnh. Mà nếu cô ta được nhìn như thế thì cô ta nói “họ chỉ ngưỡng mộ thôi”.
Nếu cô ta nói thì cô ta muốn Ngài lắng nghe. Mà nếu Ngài lắng nghe thì cô ta muốn Ngài nói.
Chúa ơi! Chúa đã tạo dựng loại sinh vật được gọi là phụ nữ đó, quá đơn giản nhưng cũng rất phức tạp, rất yếu đuối nhưng cũng rất mạnh mẽ, rất rắc rối nhưng cũng rất đáng mơ ước.
Lạy Chúa, xin dạy cho con biết phải làm gì. Amen.

                                                         NHÀ KINH THÁNH LỖI LẠC

    Có một nhà Kinh Thánh lỗi lạc, ông nói gì cũng dùng lời Kinh Thánh mà nói. Đức Giám Mục nghe nói thế bèn gởi một linh mục đến điều tra. Vị linh mục đến trước nhà nhìn qua cánh cửa hé mở thấy nhà Kinh Thánh đang ngồi nhậu nên đứng ngoài quan sát. Bỗng dưng một giọng đàn ông ngà ngà lên tiếng:
- Này bà, họ hết rượu rồi (Ga 2,3).
Bà vợ đáp:
- Ngày nào cũng nhậu hết. Ông muốn mua thêm mấy lon bia nữa hả?
Nhà Kinh Thánh:
- Một hòm bia (Xh 25,10).
Bà vợ trợn mắt:
- Một hòm bia lận hả? Ngày mai lấy tiền đâu mua đồ ăn cho con chứ?
Nhà Kinh Thánh nửa tỉnh nửa say:
- Đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy (Mt 6,34).
Bà vợ cằn nhằn:
- Ông thì không lo, nhưng tôi lo. Tôi không đi.
Nhà Kinh Thánh:
- Đi mau lên (1Sm 9,12). Đưa chân đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi! (Cv 26,14).
Vị linh mục đứng ngoài hoàn toàn kinh ngạc!!!???

                                                         
                                                        15 CÁCH ĐỂ LẤY ĐƯỢC VỢ

Nói có sách, mách có chứng. Này nhé, các bạn con giai nào đang còn “đơn thương độc mã”, hoặc là “lắm mối, tối nằm chèo queo”, thì hãy cùng tôi, mở sách Thánh Kinh ra, và chúng ta cùng nhau đi tìm, xem 15 cách để lấy được vợ là những cách nào…
Lưu ý: Những cách thức lấy vợ này không theo một thứ tự nào cả, các bạn xem cách nào thích hợp với mình, thì xin cứ… tự nhiên, nhưng phải hết sức cẩn thận kẻo lại “mang gông vào cổ” đấy.
Cách thứ 1: Sách Đệ Nhị Luật (21:11-13) - Ngươi hãy đi tìm một nữ tù nhân chiến tranh, đem nàng về nhà, cạo trọc đầu, cắt tỉa móng tay móng chân cho gọn gàng tươm tất, và cho nàng mặc quần áo mới vào. Thế là nàng sẽ thuộc về ngươi.
* Cách này hơi tốn công, mà cũng khá tốn kém, xét cho cùng thì chỉ có lợi cho thẩm mỹ viện và mấy cái tiệm làm “neo” thôi!
Cách thứ 2: Sách Xuất hành (2:16-21) - Hãy đi tìm một người đàn ông có 7 đứa con gái, và hãy chinh phục lấy lòng ông ta bằng cách xách nước về cho súc vật của ông ấy uống. Ngươi (Môsê) sẽ lấy được một trong những người con gái của ông ấy làm vợ.
* Cách này hơi “gay” đấy!
Cách thứ 3: Sách bà Rút (4:5-10) - (Boaz) Hãy đi mua một mảnh đất địa ốc, và trong phần giao kèo, đừng quên là phải có một người đàn bà được bao gồm trong đó.
* Cách này thực tế quá, đúng là có tiền mua tiên cũng được! Nghe có vẻ thuận lợi cho những ai hành nghề địa ốc.
Cách thứ 4: Sách tiên tri Hô-sê (1:1-3) - Ngươi (Hôzê) hãy đi tìm một kỹ nữ mà lấy làm vợ.
* cách này hơi khó xài ???
Cách thứ 5: Sách Thủ Lãnh (21:19-25) - Ngươi (Bengiamin) hãy đi dự tiệc và hãy ẩn mình, chờ cho tới khi các cô gái ra khiêu vũ thì hãy nhanh tay túm lấy một cô, rồi mang về làm vợ.
* Cách này táo bạo và liều mạng quá. Coi chừng vô nhà đá ngồi xé lịch mệt nghỉ đấy!
Cách thứ 6: Sách Sáng thế (2:19-24) - Hãy để cho Chúa tạo nên một người vợ cho bạn (ông Adam) trong lúc bạn đang say giấc điệp.
* Cách này sẽ làm cho bạn mất hết một cái xương sườn.
Cách thứ 7: Sách Samuel (1Sm 18:27) - (Đavít) đem 200 bao quy đầu kẻ thù của cha vợ tương lai để làm quà cưới.
* Cách này đúng là cách của “dân anh chị” trong chốn giang hồ.
Cách thứ 8: Sách Sáng thế Ký (29:15-30) - Giacóp đồng ý đi cày ở rể suốt 7 năm để được nắm lấy tay người đẹp, nhưng rồi bị đánh lừa, cưới phải một người đàn bà khác. Sau đó đành phải ở rể thêm 7 năm nữa để cuối cùng mới có thể lấy được đúng người đàn bà trong mộng mà mình muốn lấy làm vợ ngay từ thuở ban đầu.
* Rõ là toi công suốt 14 năm mới lấy được vợ!
Cách thứ 9: Sách Sáng thế ký (4:16-17) - Cho dù không có ai ở chung quanh ngươi (Cain), nhưng ngươi cứ chịu khó rảo quanh, đi tới đi lui. Đừng lo! Thế nào thì cuối cùng rồi ngươi cũng sẽ tìm được một người nào đó thôi mà!
* Ôi thôi, cách này lắm kẻ ở Âu Mỹ cũng đang theo đuổi, chịu khó mà phơi dài dài…
Cách thứ 10: sách Étte (2:3-4) - (Xerxes, Ahasuerus) Tìm cách trở thành một hoàng đế, rồi tổ chức cuộc tuyển lựa người đẹp.
* Cách này rất có lợi cho mấy cô thường hay ghi tên thi hoa hậu.
Cách thứ 11: Sách Thủ Lãnh (14:1-3) - Khi bạn (Samson) gặp được người đúng ý thì hãy về nhà thưa với bố mẹ bạn: Bố mẹ ơi, con đã nhìn thấy cô đó đó; bố mẹ xin cưới cô ấy giùm con đi. Nếu bố mẹ từ chối hoặc hỏi lý do thì bạn cứ việc nhõng nhẽo trả lời: “Con nhất quyết chỉ cưới cổ làm vợ thôi! Hổng thèm ai khác hết!”.
* Trường hợp này chỉ có thể áp dụng cho quý bạn nào là con trai độc tôn duy nhất trong nhà thôi!
Cách thứ 12: Sách Samuen (2Sm 11) - (Đavít) Âm mưu giết chết chồng của người đàn bà mà mình ham muốn.
* Xin chớ! Cách này chỉ có thấy ở đám dân mọi rợ trong rừng, hoặc sống theo “luật rừng” mà thôi!
Cách thứ 13: Sách Các Vua (11:1-3) - Đừng có kén quá (Salomon) kẻo ế vợ. Hãy biết dung hòa giữa chất lượng và phẩm luợng.
* Cách này tốt đấy các bạn ơi. Vả lại, tắt đèn, nhà ngói cũng như nhà tranh thôi!
Cách thứ 14: Sách Đệ Nhị Luật và sách Lê-vi - Hãy chờ cho ông anh của ngươi chết đi, rồi ngươi hãy lấy người đàn bà góa đó, tức là chị dâu của ngươi, làm vợ.
* Đây không những chỉ là ý kiến hay mà thôi, nó còn chính là luật của thời đó đó, các bạn ạ!
Cách thứ 15: Thư Thánh Phaolô (1Cr 7:32-35) - Các nhân vật trong trường hợp cuối cùng này nói chung, là các “đấng” cùng các “bậc” ở một mình, hoặc là ở vậy từ 2000 năm trước cho đến nay.


Danh sách 117 thành tử đạo VN

Danh Sách 117 Thánh Tử Ðạo Việt Nam, được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II Tuyên Phong Thánh tại Rôma ngày 19/06/1988:

1. Anrê Trần An Dũng Lạc, Sinh năm 1795 tại Bắc Ninh, Linh mục, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/12.
2. Anrê Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông), Sinh năm 1790 tại Gò Thị, Bình Ðịnh, Thầy giảng, chết rũ tù ngày 15/07/1855 tại Mỹ Tho dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 15/07.
3. Anrê Trần Văn Trông, Sinh năm 1808 tại Kim Long, Huế, Binh Sĩ, bị xử trảm ngày 28/11/1835 tại An Hòa dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/11.
4. Anrê Tường, Sinh tại Ngọc Cục, Xuân Trường, Giáo dân, bị xử trảm ngày 16/06/1862 tại làng Cốc dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.
5. Antôn Nguyễn Ðích, Sinh tại Chi Long, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/08.
6. Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (Năm), Sinh năm 1768 tại Mỹ Hương, Quảng Bình, Y sĩ, bị xử giảo ngày 10/07/1840 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, đước phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 10/07.
7. Augustinô Schoeffler (Ðông), Sinh năm 1822 tại Mittelbonn, Nancy, Pháp, Linh Mục Thừa sai người Pháp, Hội Thừa Sai Paris, bị xử trảm ngày 1/05/1851 tại Sơn Tây dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Lêô XIII, lễ kính vào ngày 1/05.
8. Augustinô Phan Viết Huy, Sinh năm 1795 tại Hạ Linh, Bùi Chu, Binh Sĩ, Giáo dân dòng ba, bị xử lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/06.
9. Augustinô Nguyễn Văn Mới, Sinh năm 1806 tại Phù Trang, Nam Ðịnh, Giáo dân, dòng ba Ða Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.
10. Bênađô Vũ Văn Duệ, Sinh năm 1755 tại Quần Anh, Nam Ðịnh, Linh mục triều, bị xử trảm ngày 1/08/1838 tại Ba Tòa dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 1/08.
11. Ða-Minh Cẩm, Sinh tại Cẩm Chương, Bắc Ninh, Linh mục, Dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 11/03/1859 tại Hưng Yên dưới thời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 11/03.
12. Ða-Minh Ðinh Ðạt, Sinh năm 1803 tại Phú Nhai, Bùi Chu, Binh Sĩ, Giáo dân dòng ba, bị xử giảo ngày 18/07/1839 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/07.
13. Ða-Minh Nguyễn Văn Hạnh (Diệu), Sinh năm 1772 tại Năng A, Nghệ An, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 1/08/1838 tại Ba Tòa dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 1/08.
14. Ða-Minh Huyện, Sinh tại Ðông Thành, Thái Bìnb, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 5/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 5/06.
15. Ða-Minh Phạm Viết Khảm (Án Trọng), Sinh tại Quần Cống, Nam Ðịnh, Quan Án, Giáo dân Dòng Ba Ða Minh, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 13/01.
16. Ða-Minh Nguyễn Ðức Mạo, Sinh tại Phú Yên, Ngọc Cực, Giáo dân, bị xử trảm ngày 16/06/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.
17. Ða-Minh Hà Trọng Mầu, Sinh tại Phú Nhai, Bùi Chu, Linh mục Dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 5/11/1858 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 5/11.
18. Ða-Minh Nguyên, Sinh tại Ngọc Cục, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 16/06/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.
19. Ða-Minh Nhi, Sinh tại Ngọc Cục, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 16/06/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.
20. Ða-Minh Ninh, Sinh năm 1835 tại Trung Linh, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 2/06/1862 tại An Triêm dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 2/06.
21. Ða-Minh Toái, Sinh tại Ðông Thành, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 5/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 5/06.
22. Ða-Minh Trạch (Ðoài), Sinh năm 1792 tại Ngoại Bồi, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 18/09/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/09.
23. Ða-Minh Vũ Ðình Tước, Sinh năm 1775 tại Trung Lao, Bùi Chu, Linh mục dòng Ða Minh, bị tra tấn đến chết ngày 2/04/1839 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 2/04.
24. Ða-Minh Bùi Văn Úy, Sinh năm 1801 tai Tiên Môn, Thái Bình, Thầy giảng dòng ba Ða Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.
25. Ða-Minh Nguyễn Văn Xuyên (Ðoàn), Sinh năm 1786 tại Hưng Lập, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh. , bị xử trảm ngày 26/11/1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 26/11.
26. Ðức Cha Ða-Minh Xuân (Dominicus Henarès), Sinh năm 1765 tại Baena, Cordova, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, phụ tá địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 25/06/1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngàỵ 25/06.
27. Ðức Cha Giêrônimô Liêm (Hieronymus Hermosilla), Sinh năm 1800 tại S. Domingo de la Calzadar, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861 tại Hải Dương dưới thời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.
28. Ðức Cha Giuse An (Maria Diaz Sanjurjo), Sinh năm 1818 tại Santa Eulalia de Suegos, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, bị xử trảm ngày 20/07/1857 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1900 do Ðức Piô XII, lễ kính ngày 20/07.
29. Ðức Cha Clêmentê Inhaxiô Hy (Ignatius delgado), Sinh năm 1761 tại Villa Felice, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị chết rũ tù ngày 12/07/1838 (21/6/1838 (âm lịch) tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/07.
30. Ðức Cha Melchor Xuyên (Garcia Sampedro), Sinh năm 18211 tại Cortes Asturias, Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, bị xử lăng trì ngày 28/07/1858 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951, do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 28/07.
31. Ðức Cha Phêrô Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie), Sinh năm 1808 tại Beynat, Tulle, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 24/11/1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.
32. Ðức Cha Thể (Etienne Théodore Cuénot), Sinh năm 1802 tại Belieu, Besancon, Pháp, Giám mục Hội Thừa Sai Paris, địa phận Ðông Ðàng Trong, chết rũ tù ngày 14/11/1861 tại Bình Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kínhvào ngày 14/11.
33. Ðức Cha Vinh (Berrio Ochoa), Sinh năm 1827 tại Elorrio (Vizcaya), Tây Ban Nha, dòng Ða Minh, Giám mục thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861 tại Hải Dương dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.
34. Emmanuel Lê Văn Phụng, Sinh năm 1796 tại Ðầu Nước, Cù Lao Giêng, Giáo dân, Trùm Họ, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Ðốc dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 31/07.
35. Emmanuel Nguyễn Văn Triệu, Sinh năm 1756 tại Thợ Ðức, Phú Xuân, Huế, Linh mục, bị xử trảm ngày 17/09/1798 tại Bãi Dâu dưới đời vua Cảnh Thịnh, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 17/09.
36. Giacôbê Ðỗ Mai Năm, Sinh năm 1781 tại Ðông Biên, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/08.
37. Gioan Baotixita Cỏn, Sinh năm 1805 tại Kẻ Bàng, Nam Ðịnh, Giáo dân, Lý Trưởng, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dướiđời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.
38. Gioan Baotixita Ðinh Văn Thành, Sinh năm 1796 tại Nộn Khê, Ninh Bình, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/04.
39. Gioan Ðạt, Sinh năm 1765 tại Ðồng Chuối, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 28/10/1798 tại Chợ Rạ dưới đời vua Cảnh Thịnh, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/10.
40. Gioan Ðoàn Trịnh Hoan, Sinh năm 1798 tại Kim Long, Thừa Thiên, Linh mục, bị xử trảm ngày 26/05/1861 tại Ðồng Hới dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 26/05.
41. Gioan Hương (Jean Louis Bonnard), Sinh năm 1824 tại Saint Christo en Jarez, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/05/1852 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 1/05.
42. Gioan Tân (Jean Charles Cornay), Sinh năm 1809 tại Loudun, Poitiers, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử lăng trì ngày 20/09/1837 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 20/05.
43. Gioan Ven (Jean Théophane Vénard), Sinh năm 1829 tại St. Loup-sur-Thouet, Poitiersm, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 2/02/1861 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 2/02.
44. Giuse Hoàng Lương Cảnh, Sinh năm 1763 tại Làng Ván, Bắc Giang, Giáo dân dòng ba Ða Minh, Trùm Họ, Y Sĩ, xử trảm ngày 5/09/1838 tại Bắc Ninh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 5/09.
45. Giuse Du (Joseph Marchand), Sinh năm 1803 tại Passavaut, Besancon, Pháp, Linh Mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Ngoài, bị xử hình bá đao ngày 30/11/1835 tại Thợ Ðúc dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 30/11.
46. Giuse Ðỗ Quang Hiển, Sinh năm 1775 tại Quần Anh, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 9/05/1840 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 9/05.
47. Giuse Hiền (Joseph Fernandez), Sinh năm 1775 tại Ventosa de la Cueva, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 24/07/1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/07.
48. Giuse Nguyễn Duy Khang, Sinh năm 1832 tại Trà Vi, Nam Ðịnh, Thầy giảng dòng ba Ða Minh, bị xử trảm ngày 6/12/1861 tại Hải Dương dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 6/12.
49. Giuse Nguyễn Văn Lựu, Sinh năm 1790 tại Cái Nhum, Vĩnh Long,Trùm họ, chết rũ tù ngày 2/05/1854 tại Vĩnh Long dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 2/05.
50. Giuse Nguyễn Ðình Nghi, Sinh năm 1771 tại Kẻ Với, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.
51. Giuse Phạm Trọng Tả (Cai), Sinh năm 1796 tại Quần Cống, Nam Ðịnh, Giáo dân, Cai Tổng, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 27/05/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 13/01.
52. Giuse Lê Ðăng Thị, Sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị, Giáo dân, Cai Ðội, bị xử giảo ngày 24/10/1860 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 24/10.
53. Giuse Tuân, Sinh năm 1821 tại Trần Xá, Hưng Yên, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 30/04/1861 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 30/04.
54. Giuse Trần Văn Tuấn, Sinh năm 1825 tại Nam Ðiền, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 7/01/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 7/01.
55. Giuse Túc, Sinh năm 1852 tại Hoàng Xá, Bắc Ninh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 1/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 1/06.
56. Giuse Nguyễn Ðình Uyển, Sinh năm 1775 tại Ninh Cường, Nam Ðịnh, Thầy giảng, dòng ba Ða Minh, chết rũ tù ngày 4/7/1838 tại Hưng Yên dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 4/07.
57. Giuse Ðặng Ðình Viên, Sinh năm 1787 tại Tiên Chu, Hưng Yên, Linh mục triều, bị xử trảm ngày 21/8/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/08.
58. Henricô Gia (Henricus Castaneda), Sinh năm 1743 tại Javita, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 7/11/1773 tại Ðồng Mơ dưới đời Chúa Trịnh Sâm, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 7/11.
59. Inê Lê Thị Thành (Ðệ), Sinh năm 1781 tại Bái Ðền, Thanh Hóa, Giáo dân, chết rũ tù ngày 12/07/1841 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 12/07.
60. Lôrensô Nguyễn Văn Hưởng, Sinh năm 1802 tại Kẻ Sài, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 13/02/1856 tại Ninh Bình dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 13/02.
61. Lôrensô Ngôn, Sinh tại Lục Thủy, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 22/05/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 22/05.
62. Luca Vũ Bá Loan, Sinh năm 1756 tại Trại Bút, Phú Ða, Linh mục, bị xử trảm ngày 5/06/1840 Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 5/06.
63. Luca Phạm Viết Thìn (Cai), Sinh năm 1819 tại Quần Cống, Nam Ðịnh, Giáo dân, Cai Tổng, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 13/01.
64. Matthêu Nguyễn Văn Phượng (Ðắc), Sinh năm 1808 tại Kẻ Lái, Quảng Bình, Trùm họ, bị xử trảm ngày 26/05/1861 tại Ðồng Hới dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 26/05.
65. Matthêu Ðậu (Matthaeus Alonso Leciniana), Sinh năm 1702 tại Nava del Rey, Tây Ban Nha, Linh Mục dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 22/01/1745 tại Thăng Long dưới đời chúa trịnh Doanh, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 22/01.
66. Matthêu Lê Văn Gẫm, Sinh năm 1813 tai Gò Công, Biên Hòa, Giáo dân, Thương gia, bị xử trảm ngày 11/05/1847 tại Chợ Ðũi dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 11/05.
67. Martinô Tạ Ðức Thịnh, Sinh năm 1760 tại Kẻ Sặt, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.
68. Martinô Thọ, Sinh năm 1787 tại Kẻ Bàng, Nam Ðịnh, Giáo dân, Trùm họ, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.
69. Micae Hồ Ðình Hy, Sinh năm 1808 tại Như Lâm, Thừa Thiên, Giáo dân, Quan Thái Bộc, bị xử trảm ngày 22/05/1857 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 22/05.
70. Micae Nguyễn Huy Mỹ, Sinh năm 1804 tại Kẻ Vĩnh, Hà Nội, Giáo dân, Lý Trưởng, bị xử trảm ngày 12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do ÐứcLêô XIII, lễ kính vào ngày 12/08.
71. Nicôla Bùi Ðức Thể, Sinh năm 1792 tại Kiên Trung, Bùi Chu, Giáo dân, Binh sĩ, bị lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Leô XIII, lễ kính vào ngày 12/06.
72. Phanxicô Ðỗ Văn Chiểu, Sinh năm 1797 tại Trung Lễ, Liên Thủy, Nam Ðịnh, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 25/06/1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 25/06.
73. Phanxicô Kính (Francois Isidore Gagelin), Sinh năm 1799 tại Montperreux, Besancon, Pháp, Linh mục Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Trong, bị xử giảo ngày 17/10/1833 tại Bãi Dâu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 17/10.
74. Phanxicô Phan (Francois Jaccard), Sinh năm 1799 tại Onnion, Annecy, Pháp, Linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Trong, bị xử giảo ngày 21/09/1838 tại Nhan Biều dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/09.
75. Phanxicô Tế (Francois Gil de Federich), Sinh năm 1702 tại Tortosa, Catalunha, Tây Ban Nha, Linh mục dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 22/01/1745 tại Thăng Long dưới đời chúa Trịnh Doanh, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 22/01.
76. Phanxicô Trần Văn Trung, Sinh năm 1825 tại Phan Xã, Quảng Trị, Giáo dân, Cai đội, bị xử trảm ngày 6/10/1858 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 6/10.
77. Phanxicô Xaviê Cần, Sinh năm 1803 tại Sơn Miêng, Hà Ðông, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 20/11/1837 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 20/11.
78. Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu, Sinh năm 1794 tại Kẻ Ðiều, Thầy giảng, dòng ba Ða Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cô Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.
79. Phaolô Tống Viết Bường, Sinh tại Phủ Cam, Huế, Giáo dân, Quan Thị Vệ, bị xử trảm ngày 23/10/1833 tại Thợ Ðức dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 23/10.
80. Phaolô Dương (Ðổng), Sinh năm 1792 tại Vực Ðường, Hưng Yên, Giáo dân, Trùm họ, bị xử trảm ngày 3/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 3/06.
81. Phaolô Hạnh, Sinh năm 1826 tại Chợ Quán, Giáo dân, bị xử trảm ngày 28/05/1859 tại Nam Việt dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 28/05.
82. Phaolô Phạm Khắc Khoan, Sinh năm 1771 tại Duyên Mậu, Ninh Bình, Linh mục, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/04.
83. Phaolô Lê Văn Lộc, Sinh năm 1830 tại An Nhơn, Gia Ðịnh, Linh mục, bị xử trảm ngày 13/02/1859 tại Gia Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 13/02.
84. Phaolô Nguyễn Văn Mỹ, Sinh năm 1798 tại Kẻ Non, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18/12/1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/12.
85. Phaolô Nguyễn Ngân, Sinh năm 1771 tại Kẻ Bền, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.
86. Phaolô Lê Bảo Tịnh, Sinh năm 1793 tại Trịnh Hà, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 6/04/1857 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 6/04.
87. Phêrô Bắc (Pierre Francois Neron), Sinh năm 1818 tại Bornay, Saint-Claude, Pháp, Linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Tây Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 3/11/1860 tại Sơn Tây dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính av2o ngày 3/11.
88. Phêrô Bình (Petrus Almato), Sinh năm 1830 tại San Feliz Saserra, Tây Ban Nha, Linh mục dòng Ða Minh, thừa sai người Tây Ban Nha, địa phận Ðông Ðàng Ngoài, bị xử trảm ngày 1/11/1861 tại Hải Dương dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 1/11.
89. Phêrô Dũng, Sinh tại Ðông Hào, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước nag2y 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 6/06.
90. Phêrô Ða, Sinh tại Ngọc Cục, Xuân Trường, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 17/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 17/06.
91. Phêrô Nguyễn Văn Ðường, Sinh năm 1808 tại Kẻ Sở, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18/12/1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/12.
92. Phêrô Nguyễn Văn Hiếu, Sinh năm 1783 tại Ðồng Chuối, Ninh Bình, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 28/04.
93. Phêrô Phạm Khanh, Sinh năm 1780 tại Hòa Duệ, Nghệ An, Linh mục, bị xử trảm ngày 12/07/1842 tại Hà Tĩnh dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 12/07.
94. Phêrô Võ Ðăng Khoa, Sinh năm 1790 tại Thượng Hải, Nghệ An, Linh mục, bị xử giảo ngày 24/11/1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.
95. Phêrô Nguyễn Văn Lựu, Sinh năm 1812 tại Gò Vấp, Gia Ðịnh, Linh mục, bị xử trảm ngày 7/04/1861 tại Mỹ Tho dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 7/04.
96. Phêrô Ðoàn Công Quý, Sinh năm 1826 tại Búng, Gia Ðịnh, Linh mục, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Ðốc dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909, lễ kính vào ngày 31/07.
97. Phêrô Thuần, Sinh tại Ðông Phú, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 6/06.
98. Phêrô Phạm Văn Thi, Sinh năm 1763 tại Kẻ Sở, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/12.
99. Phêrô Vũ Văn Truật, Sinh năm 1816 tại Kẻ Thiếc, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 18/12/1838 tại Sơn Tây dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 18/12.
100. Phêrô Nguyễn Bá Tuần, Sinh năm 1766 tại Ngọc Ðồng, Hưng Yên, Linh mục triều, bị chết rũ tù ngày 15/07/1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 15/07.
101. Phêrô Lê Tùy, Sinh năm 1773 tại Bằng Sở, Hà Ðông, Linh mục, bị xử trảm ngày 11/10/1833 tại Quan Ban dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 11/10.
102. Phêrô Nguyễn Khắc Tự, Sinh năm 1811 tại tại Ninh Bình, Thầy giảng, bị xử giảo ngày 10/07/1840 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 10/07.
103. Phêrô Nguyễn Văn Tự, Sinh năm 1796 tại Ninh Cường, Bùi Chu, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 5/09/1838 tại Bắc Ninh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 5/09.
104. Phêrô Ðoàn Văn Vân, Sinh năm 1780 tại Kẻ Bói, Hà Nam, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 25/05/1857 tại Sơn Tây dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 11/04/1909 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 25/05.
105. Philipphê Phan Văn Minh, Sinh năm 1815 tại Cái Mơn, Vĩnh Long, Linh mục, bị xử trảm ngày 3/07/1853 tại Ðình Khao dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 3/07.
106. Simon Phan Ðắc Hòa, Sinh năm 1787 tại Mai Vĩnh, Thừa Thiên, Giáo dân, Y Sĩ, bị xử trảm ngày 12/12/1840 tại An Hòa dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 12/12.
107. Stêphanô Nguyễn Văn Vinh, Sinh năm 1814 tại Phù Trang, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 25/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.
108. Tôma Ðinh Viết Dụ, Sinh năm 1783 tại Phú Nhai, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 26/11/1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 26/11.
109. Tôma Nguyễn Văn Ðệ, Sinh năm 1810 tại Bồ Trang, Nam Ðịnh, Giáo dân dòng ba Ða Minh, bị xử giảo ngày 19/12/1839 tại Cổ Mê dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 19/12.
110. Tôma Khuông, Sinh năm 1780 tại Nam Hào, Hưng Yên, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 30/01/1860 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 30/01.
111. Tôma Trần Văn Thiện, Sinh năm 1820 tại Trung Quán, Quảng Bình, Chủng sinh, bị xử giảo ngày 21/09/1838 tại Nhan Biều dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 21/09.
112. Tôma Toán, Sinh năm 1767 tại Cần Phan, Nam Ðịnh, Thầy giảng, dòng ba Ða Minh, bị chết rũ tù ngày 27/07/1840 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 27/06.
113. Vincentê Dương, Sinh tại Doãn Trung, Thái Bình, Giáo dân, bị thiêu sống ngày 6/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 6/06.
114. Vincentê Nguyễn Thế Ðiểm, Sinh năm 1761 tại Ân Ðô, Quảng Trị, Linh mục, bị xử giảo ngày 24/11/1838 tại Ðồng Hới dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 24/11.
115. Vincentê Lê Quang Liêm, Sinh năm 1732 tại Trà Lũ, Bùi Chu, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 7/11/1773 tại Ðồng Mơ dưới đời chúa Trịnh Sâm, được phong Chân Phước ngày 15/04/1906 do Ðức Piô X, lễ kính vào ngày 7/11.
116. Vincentê Tường, Sinh tại Phú Yên, Giáo dân, bị xử ngày 16/6/1862 tại Làng Cốc dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 16/06.
117. Vincentê Ðỗ Yến, Sinh năm 1764 tại Trà Lũ, Phú Nhai, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 30/06/1838 tại Hải Dương dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 30/06.

118. Chân Phước Anrê Phú Yên, Sinh tại tỉnh Phú Yên năm 1625. Rửa tội năm 15 tuổi, cùng lúc với bà mẹ góa và các anh chị, do chính cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Tử đạo ngày 26 tháng 7 năm 1644. Ðược phong Chân Phước ngày 5/03/2000 do Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II.